luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2002
"luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2002" được hiểu như sau:
Văn bản pháp luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 02.4.2002, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.10.2002.Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật là toàn bộ các vấn đề về tổ chức và hoạt động của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân trong cả nước, bao gồm vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân; các công tác thực hiện chức năng; quyền và nghĩa vụ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp, của Ủy ban kiểm sát, của Kiểm sát viên và các vấn để khác bảo đảm hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Lần đầu tiên Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được ban hành năm 1960. Trước đó, tổ chức và hoạt động của các cơ quan công tố chủ yếu được điều chỉnh bằng sắc lệnh số 13 ngày 24.01.1946, Sắc lệnh số 51 ngày 27.4.1946, sắc lệnh số 85 ngày 25.5.1950 và Nghị định số 256 ngày 01.7.1959 của Chính phủ.Để đảm bảo cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thắng lợi, yêu cầu đặt ra là phải thiết lập và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngày 15.7.1960, kỳ họp thứ nhất Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Khóa II đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, đánh dấu một bước phát triển và hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của các hệ thống cơ quan thuộc bộ máy nhà nước.Trong giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1992, hai Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 và năm 1992 lần lượt được ban hành, thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các cấp.Trong thời kỳ đổi mới đất nước, sau 15 năm thi hành Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, đã đặt ra yêu cầu phải kịp thời cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung cuối năm 2001 về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vào lĩnh vực kiểm sát, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân mới năm 2002 đã được Quốc hội ban hành.Về cấu trúc và nội dung cơ bản, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 có 11 chương với 55 điều. Mỗi chương đều có tên gọi phản ánh những nội dung chính của chương. Chương I - Những quy định chung, quy định chức năng, nhiệm vụ, các công tác thực hiện; trách nhiệm và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân; nguyên tắc tập trung thống nhất; vai trò, trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp và của Kiểm sát viên, Điều tra viên. Chương II - Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. Trong chương này lần đầu tiên đã có sự phân biệt các hoạt động thực hành quyền công tố với các hoạt động kiểm sát điều tra ở các điều luật riêng và quy định cụ thể những nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Chương III - Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Trong chương này, lần đầu tiên đã quy định rõ chức năng của Viện kiểm sát nhân dân là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự ở các điều luật riêng. Sự phân biệt này đã khắc phục được những sai lầm trong nhận thức đã tồn tại từ lâu trong ngành kiểm sát nhân dân coi thực hành quyền công tố chỉ là một quyền năng tố tụng, một nội dung của công tác kiểm sát xét xử hình sự, đồng thời, quy định cụ thể những nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn xét xử. Chương IV - Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng. Chương V - Kiểm sát việc thi hành án, quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện công tác kiểm sát thi hành án và trách nhiệm của Tòa án nhân dân, Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị. cá nhân có liên quan trong việc thực hiện các yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân. Chương VI - Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, quy định cụ thể về nhiệm vụ và quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong việc phát hiện và xử lý vi phạm trong tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; trách nhiệm của cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát nhân dân. Chương VII - Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Chương VIII - Viện kiểm sát quân sự, quy định những vấn đề chung về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát quân sự các cấp. Chương IX - Kiểm sát viên và Điều tra viên, quy định tiêu chuẩn chung của Kiểm sát viên, Điều tra viên. Trong chương này, lần đầu tiên quy định cụ thể nhiệm kỳ của Kiểm sát viên và Điều tra viên là 5 năm. Chương X - Bảo đảm hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, quy định những vấn đề chung về biên chế; chế độ tiền lương, phụ cấp, giấy chứng minh, trang phục đối với cán bộ ngành kiểm sát; kinh phí hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Chương XI - Điều khoản thi hành.Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam có những quy định tương tự Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân một số nước như Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Tuy nhiên, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân nước ta có những quy định cụ thể hơn về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong đó có chứa đựng một số quyền năng tố tụng mà Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân các nước khác không quy định.