luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002
"luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002" được hiểu như sau:
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật quy định và điều chỉnh về tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân.Luật tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 02.4.2002, được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 12.4.2002, thay thế Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, được sửa đổi, bổ sung vào năm 1993 và năm 1995. Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật là tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Tòa án quân sự; các Tòa án khác do luật định. Tòa án thực hiện việc xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Chế độ bổ nhiệm Thẩm phán được thực hiện đối với hệ thống Tòa án các cấp. Chế độ bầu Hội thẩm nhân dân được thực hiện đối với các Tòa án nhân dân địa phương. Chế độ cử Hội thẩm quân nhân được thực hiện đối với các Tòa án quân sự quân khu và tương đương, các Tòa án quân sự khu vực. Việc xét xử ở Tòa án có các Hội thẩm tham gia theo quy định của pháp luật tố tụng. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, đồng thời, Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật.Sau khi Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới ra đời, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 cũng được ban hành làm cơ sở để bảo đảm cho hệ thống Tòa án nhân dân hoạt động hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của quá trình đổi mới. Luật này cũng đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1993 và 1995. Sau 10 năm phát huy hiệu lực, góp phần đáng kể vào việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Luật năm 1992 cần được thay thế bằng một luật tổ chức Tòa án nhân dân mới, trong đó vấn đề cần được quan tâm là công tác quản lý Tòa án địa phương, Tòa án quân sự về mặt tổ chức; cơ cấu và hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao; thẩm quyền của Tòa án các cấp, đặc biệt là thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện...Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 có 7 chương với 48 điều. Chương I - Những quy định chung, gồm 17 điều, quy định chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án, bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời, quy định về chế độ bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án các cấp, chế độ bầu Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân; về nguyên tắc xét xử, chế độ xét xử, các nguyên tắc phối hợp trong xét xử và phòng ngừa tội phạm; nguyên tắc quản lý và phối hợp quản lý các Tòa án nhân dân địa phương và các Tòa án quân sự về mặt tổ chức... Chương II, quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao, gồm 9 điều, xác định Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; nêu rõ cơ cấu, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân tối cao: cơ cấu, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền của Hội đồng Thẩm phán và các Tòa chuyên trách, Tòa phúc thẩm thuộc Tòa án nhân dân tối cao; nhiệm vụ và quyền hạn của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao... Chương III, quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân địa phương, gồm 2 mục với 7 điều: Mục A, gồm 5 điều, quy định cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền của các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung Ương; cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban Thẩm phán, các Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: nhiệm vụ và quyền hạn của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh; Mục B, gồm 2 điều, quy định cơ cấu tổ chức, thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện. Chương IV, gồm 3 điều, quy định về cơ cấu tổ chức các Tòa án quân sự. Tổ chức và hoạt động của các Tòa án quân sự do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định. Chương V, quy định về Thẩm phán và Hội thẩm, gồm 7 điều, quy định về tiêu chuẩn, điều kiện để được tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán, bầu hoặc cử làm Hội thẩm; các quy định về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán và Hội thẩm; thời hạn nhiệm kỳ của Thẩm phán và Hội thẩm; thời hạn nhiệm kỳ của Thẩm phán, các chức danh Chánh án, Phó Chánh án Tòa án các cấp; nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân... Chương VI, quy định về những bảo đảm hoạt động của Tòa án, gồm 4 điều, các quy định về chế độ tiền lương, phụ cấp, tổng biên chế, kinh phí hoạt động, sự phối hợp của lực lượng công an và cảnh vệ trong quân đội về việc dẫn giải bị cáo và bảo vệ phiên Tòa. Chương VII - Điều khoản thi hành.Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 là cơ sở pháp lý vững chắc để ngành Tòa án kiện toàn về cơ cấu tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng các yêu cầu của công cuộc đổi mới, cải cách tư pháp, cải cách hành chính, tiến tới xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.