luật thương mại năm 1997
"luật thương mại năm 1997" được hiểu như sau:
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các hành vi thương mại, xác định địa vị pháp lý của thương nhân và quy định những nguyên tắc, chuẩn mực trong hoạt động thương mại tại Việt Nam.Luật thương mại được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa IX, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10.5.1997, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.1998, là cơ sở pháp lý để phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ thương mại, mở rộng giao lưu thương mại với nước ngoài; góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất, người tiêu dùng và lợi ích hợp pháp của thương nhân; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại Việt Nam là các hoạt động thương mại mà chủ thể là thương nhân. Song hoạt động thương mại theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại gắn liền với hoạt động mua bán hàng hóa (gồm 14 hành vi: mua bán hàng hóa; đại diện cho thương nhân; môi giới thương mại; Ủy thác mua bán hàng hóa; đại lý mua bán hàng hóa; gia công trong thương mại; đấu giá hàng hóa; đấu thầu hàng hóa; dịch vụ giao nhận hàng hóa; dịch vụ giám định hàng hóa; khuyến mại; quảng cáo; trưng bày, giới thiệu hàng hóa; hội chợ, triển lãm thương mại. Đối tượng hàng hóa trong hoạt động thương mại mà Luật thương mại quy định cũng được giới hạn chủ yếu là các động sản như máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng và các động sản khác được phép lưu thông trên thị trường, thêm nữa là nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua, bán, còn các đối tượng hàng hóa là bất động sản (không phải nhà ở), các quyền về tài sản như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các tài sản là quyền sở hữu trí tuệ... cùng các hoạt động thương mại khác như: thương mại hàng hải; dịch vụ hàng không; dịch vụ bưu chính - viễn thông; dịch vụ ngân hàng; dịch vụ bảo hiểm; các dịch vụ tài chính, thuê, mua tài chính... thì không thuộc đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại Việt Nam năm 1997. Xét về phạm vi điều chỉnh, ngoài việc xác định quy chế thương nhân, điều chỉnh một số hoạt động thương mại do thương nhân thực hiện, Luật thương mại Việt Nam còn quy định những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại và chính sách thương mại của Nhà nước.Hiến pháp năm 1992 ra đời, thừa nhận cùng với hai thành phần kinh tế chủ đạo là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, sự tồn tại của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, thừa nhận và bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của công dân về tư liệu sản xuất, vốn và các tài sản khác, ghi nhận quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng của các chủ thể kinh doanh trước pháp luật đã làm cho các quan hệ sản xuất, kinh doanh có sự biến đổi sâu sắc cả về chất và lượng. Trong bối cảnh đó, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua và ban hành Luật thương mại.Về bố cục và nội dung cơ bản, Luật thương mại Việt Nam gồm Lời nói đầu và 6 chương với 264 điều. Mỗi chương, điều đều có tên gọi phản ánh nội dung chính của chương và điều luật đó. Chương I (4 mục với 44 điều) là những quy định chung về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại và chính sách thương mại của Nhà nước Việt Nam, quy định về quy chế thương nhân trong nước, thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam. Chương II (15 mục với 174 điều) quy định về hoạt động thương mại bao gồm 14 loại hành vi thương mại; nội dung thực hiện các hành vi đó; quyền và nghĩa vụ của các bên trong các quan hệ mua bán hàng hóa; đại diện cho thương nhân; môi giới thương mại; Ủy thác mua bán hàng hóa; đại lý mua bán hàng hóa; gia công trong thương mại; đấu giá hàng hóa; đấu thầu hàng hóa; dịch vụ giao nhận hàng hóa; dịch vụ giám định hàng hóa; khuyến mại; quảng cáo thương mại; trưng bày, giới thiệu hàng hóa; hội chợ, triển lãm thương mại. Chương III (3 điều) quy định về thương phiếu - là một loại chứng chỉ (hối phiếu và lệnh phiếu) mà thương nhân được sử dụng để thanh toán trong hoạt động thương mại. Chương IV (2 mục với 22 điều) quy định các chế tài trong thương mại và việc giải quyết tranh chấp trong thương mại. Chương V (3 mục với 19 điều) quy định về quản lý nhà nước về thương mại, trong đó quy định nội dung quản lý nhà nước về thương mại; thanh tra thương mại; khen thưởng và xử lý vi phạm. Chương VI gồm 2 điều quy định điều khoản thi hành.Ngày 14.6.2005 tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội Khóa XI đã thông qua Luật thương mại mới thay thế Luật thương mại năm 1997 và có hiệu lực từ ngày 01.01. 2006.