luật tài nguyên nước năm 1998
"luật tài nguyên nước năm 1998" được hiểu như sau:
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật quy định và điều chỉnh việc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra.Luật tài nguyên nước được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20.5.1998, có hiệu lực kể từ ngày 01.01.1999. Luật khẳng định tài nguyên nước thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Tài nguyên nước bao gồm các nguồn nước mặt, nước mưa, nước dưới đất, nước biển thuộc lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nước biển, nước dưới đất thuộc vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa được quy định tại các văn bản pháp luật khác. Đối với nước khoáng, nước nóng thiên nhiên thì do Luật khoáng sản quy định. Luật tài nguyên nước quy định phạm vi điều chỉnh và quy định quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý tài nguyên nước; xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi cá nhân trong việc bảo vệ tài nguyên nước; xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia các quan hệ phát sinh từ việc khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước; quy định các tiêu chuẩn về nước sạch để trên cơ sở đó xác định mức độ ô nhiễm, mức độ suy thoái môi trường nước, trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong việc bồi thường thiệt hại, khôi phục hiện trạng môi trường.Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường, quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của đất nước, mặt khác, nước cũng có thể gây ra tai họa cho con người và môi trường. Xét về thực trạng, tài nguyên nước của Việt Nam đang ở trong tình trạng suy thoái nghiêm trọng do các nguyên nhân đốt phá, khai thác rừng bừa bãi, nạn khai thác khoáng sản ở đầu nguồn; việc khai thác các nguồn nước một cách quá mức và không đúng quy định, kỹ thuật; nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp và các chất thải lỏng khác không được xử lý trước khi thải ra các nguồn nước đã gây nên ô nhiễm; trong suốt một thời gian dài, pháp luật bảo vệ tài nguyên nước không được xây dựng đồng bộ, chưa có luật riêng, dẫn đến tình trạng việc quản lý nhà nước đối với tài nguyên nước phân tán, chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau. Trong tình hình đó, để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, đề cao trách nhiệm của các chủ thể pháp luật tài nguyên nước trong bảo vệ, khai thác tài nguyên nước, Luật tài nguyên nước được ban hành.Luật tài nguyên nước có 10 chương với 75 điều. Chương I - Những quy định chung, gồm 9 điều, quy định về quyền sở hữu, sử dụng tài nguyên nước, nguyên tắc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, chính sách quản lý, đầu tư phát triển tài nguyên nước, quy định các hành vi bị nghiêm cấm. Chương II - Bảo vệ tài nguyên nước, gồm 10 điều, quy định về trách nhiệm, phương thức bảo vệ tài nguyên nước, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được phép xả nước thải. Chương III - Khai thác, sử dụng tài nguyên nước, gồm 16 điều, quy định các nguyên tắc, phương thức, biện pháp trong việc điều hòa, phân phối nguồn nước; quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khai thác, sử dụng tài nguyên nước, quản lý, cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước... Chương IV - Phòng, chống, khắc phục hậu quả lũ lụt và tác hại do nước gây ra, gồm 11 điều, quy định về trách nhiệm, cách thức, phương pháp phòng, chống, khắc phục hậu quả lũ, lụt và tác hại khác do nước gây ra. Chương V - Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi, gồm 6 điều, xác định rõ trách nhiệm, phương án, phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi, bảo vệ đê điều, quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi. Chương VI - Quan hệ quốc tế về tài nguyên nước, gồm 4 điều, quy định về nguyên tắc áp dụng trong quan hệ quốc tế, yêu cầu về hợp tác và phát triển tài nguyên nước, giải quyết tranh chấp về nguồn nước quốc tế. Chương VII - Quản lý nhà nước về tài nguyên nước, gồm 9 điều, quy định nội dung, thẩm quyền quản lý nhà nước về tài nguyên nước, giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước. Chương VIII - Thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước, gồm 4 điều. Chương IX - Khen thưởng và xử lý vi phạm gồm 2 điều. Chương X - Điều khoản thi hành gồm 4 điều. Luật tài nguyên nước năm 1998 ra đời đã cùng với một số văn bản pháp luật khác như Luật thỦy sản, Bộ luật hàng hải, Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật bảo vệ môi trường... và hệ thống các văn bản của Chính phủ ban hành liên quan đến tài nguyên nước tạo thành hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước, góp phần bảo vệ có hiệu quả nguồn tài nguyên quý giá - yếu tố quan trọng hàng đầu của môi trường sống.