Hệ thống pháp luật

luật quốc tịch việt nam năm 1998

"luật quốc tịch việt nam năm 1998" được hiểu như sau:

Đạo luật với hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh và quy định về các vấn đề hưởng và mất quốc tịch Việt Nam, thay đổi quốc tịch Việt Nam của người chưa thành niên và của con nuôi; xác định trình tự, thủ tục, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến quốc tịch Việt Nam.Luật quốc tịch Việt Nam được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20.5.1998, thay thế Luật quốc tịch năm 1988 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.1999.Năm 1988, lần đầu tiên Nhà nước ban hành Luật quốc tịch, vấn đề đã được chính quyền nhân dân đặc biệt quan tâm. Ngay trong những ngày tháng đầu tiên, chủ tịch Hồ Chí Minh đã liên tục ban hành các văn bản: sắc lệnh số 53/SL ngày 20.10.1945, sắc lệnh số 73/SL ngày 07.12.1945, Điều 6 sắc lệnh số 215/SL ngày 20.8.1948, sắc lệnh số 51/SL ngày 14.12.1959, Nghị quyết số 1043 NQ/TVQH ngày 08.12.1971 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đây là những văn bản pháp luật được ban hành ngay trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sau khi thống nhất đất nước, các quy định trong các văn bản này không còn phù hợp nữa. Mặt khác, trước yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật và kịp thời điều chỉnh các quan hệ phức tạp liên quan đến quốc tịch Việt Nam, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội Khóa VIII ngày 28.6.1988 đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam gồm 6 chương,18 điều. Qua 10 năm thực hiện Luật quốc tịch năm 1988 có một số quy định cần được sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản, đồng thời kịp thời thể chế hóa đường lối đổi mới với chủ trương mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới về các lĩnh vực kinh tế, văn hóa ngày càng có nhiều người nước ngoài đến Việt Nam và người Việt Nam ra nước ngoài kinh doanh, sinh sống, kết hôn... đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến các chế định quốc tịch.Luật quốc tịch năm 1998 đã trở thành một cơ sở pháp lý quan trọng tăng cường quản lý nhà nước đối với các vấn đề liên quan đến quốc tịch, khẳng định rõ ràng chính sách của Nhà nước ta trong vấn đề bình đẳng dân tộc, bình đẳng trong việc hưởng quốc tịch, đồng thời đề cao vinh dự, ý thức trách nhiệm của công dân Việt Nam trong việc hưởng quyền và làm nghĩa vụ công dân, tăng cường sự gắn bó mọi người Việt Nam dù cư trú trong nước hay nước ngoài, Luật khẳng định: ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch Việt Nam - Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, mọi thành viên của các dân tộc đều bình đẳng về quyền có quốc tịch Việt Nam.Về đối tượng điều chỉnh: Luật quốc tịch điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến các trường hợp được hưởng quốc tịch Việt Nam, mất quốc tịch Việt Nam, thay đổi quốc tịch Việt Nam của người chưa thành niên và của con nuôi; các quan hệ phát sinh giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến quốc tịch Việt Nam với nhau và với người có quốc tịch Việt Nam.Về phạm vi điều chỉnh, Luật chỉ điều chỉnh các trường hợp liên quan đến quốc tịch Việt Nam, không điều chỉnh các trường hợp mất quốc tịch nước ngoài khi người nước ngoài gia nhập quốc tịch Việt Nam.Về cơ cấu và nội dung cơ bản Luật có 6 chương với 42 điều: Chương I - Những quy định chung: quy định về quyền đối với quốc tịch; giải thích các thuật ngữ liên quan đến quốc tịch Việt Nam; nguyên tắc một quốc tịch; quan hệ giữa Nhà nước và công dân; chính sách của Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam, hạn chế tình trạng không quốc tịch... Chương II quy định về có quốc tịch Việt Nam. Chương III quy định về trường hợp mất quốc tịch Việt Nam. Chương IV quy định về vấn để thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi. Chương V quy định về thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch. Chương VI quy định về điều khoản thi hành.So sánh Luật quốc tịch Việt Nam với Luật quốc tịch của các nước trên thế giới cho thấy, các nước thường áp dụng một trong hai nguyên tắc là nguyên tắc huyết thống và nguyên tắc nơi sinh để giải quyết vấn đề hưởng quốc tịch cho công dân nước mình. Việc vận dụng không thống nhất hai nguyên tắc này dẫn đến tình trạng trên thế giới có người mang hai quốc tịch nhưng ngược lại lại có người không mang quốc tịch một nước nào. Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 đã kết hợp chặt chẽ cả hai nguyên tắc nói trên để giải quyết vấn đề hưởng quốc tịch cho mọi trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam, không để một trẻ em nào sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam rơi vào tình trạng không có quốc tịch.