Hệ thống pháp luật

luật quốc tế x. công pháp quốc tế; tư pháp quốc tế.

"luật quốc tế x. công pháp quốc tế; tư pháp quốc tế." được hiểu như sau:

Công pháp quốc tếHệ thống pháp luật bao gồm tổng thể các nguyên tắc, quy phạm pháp lý quốc tế được các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, thông qua đấu tranh và thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau và trong trường hợp cần thiết được đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do chính các chủ thể luật quốc tế thực hiện.Hệ thống các quy phạm của công pháp quốc tế tồn tại song song với các quy phạm thuộc hệ thống luật quốc gia và có ảnh hưởng, tác động đối với nhau.Công pháp quốc tế được phân chia thành các bộ phận gồm nhiều nhóm các quy phạm điều chỉnh các quan hệ hợp tác giữa các chủ thể của luật quốc tế như luật điều ước quốc tế, luật ngoại giao và lãnh sự, luật biển quốc tế, luật hàng không dân dụng quốc tế... Bên cạnh những điểm đặc thù, các ngành luật thuộc hệ thống công pháp quốc tế đều có chung các đặc điểm về chủ thể, về đối tượng điều chỉnh, về trình tự xây dựng và biện pháp cưỡng chế. Trong quản lý khoa học và đào tạo, công pháp quốc tế được gọi là ngành luật quốc tế, phân biệt với tư pháp quốc tế là ngành luật gồm các quy phạm điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan đến yếu tố nước ngoài (Xt. Tư pháp quốc tế).Thuật ngữ "Luật quốc tế” hay "Công pháp quốc tế” được dùng ở đây để nói về hệ thống pháp luật tồn tại một cách độc lập, song song với hệ thống pháp luật quốc gia chứ không bao hàm cả tư pháp quốc tế - ngành luật thuộc hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.Tư pháp quốc tếHệ thống các quy phạm pháp luật xung đột điều chỉnh quan hệ tài sản và nhân thân phi tài sản trong các lĩnh vực dân sự, tố tụng dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài.Thuật ngữ “tư pháp quốc tế” được sử dụng đầu tiên ở Mỹ vào năm 1834. Ở châu Âu, thuật ngữ này được sử dụng vào giữa thế kỉ XIX (Droit international Prive, intemationnales Privatrecht).Tư pháp quốc tế nghiên cứu các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, quan hệ lao động, quan hệ thương mại, tố tụng dân sự (quan hệ dân sự hiểu theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là điểm đặc thù để phân biệt đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế với pháp luật dân sự quốc gia. Từ yếu tố đặc thù đó, để điều chỉnh các quan hệ dân sự, tư pháp quốc tế sử dụng các quy phạm đặc thù hay còn gọi là quy phạm xung đột. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng quy phạm xung đột không trực tiếp giải quyết các quan hệ cụ thể mà chỉ quy định nguyên tắc lựa chọn Luật để giải quyết quan hệ pháp luật đó. Chẳng hạn hai quốc gia kí với nhau một thỏa thuận về bảo hộ quyền tác giả tại một quốc gia thứ ba, khi có tranh chấp xảy ra giữa hai quốc gia tham gia ký kết thỏa thuận nói trên thì Luật của quốc gia thứ ba nơi diễn ra ký kết thỏa thuận sẽ được chọn áp dụng để giải quyết tranh chấp đó.Ngoài quy phạm xung đột, tư pháp quốc tế còn sử dụng quy phạm thực chất trong nước để trực tiếp điều chỉnh quan hệ phát sinh mà không cần đến sự dẫn chiếu quy phạm xung đột của một nước khác. Quy phạm thực chất này là một bộ phận của tư pháp quốc tế.Trên thế giới hiện có nhiều cách hiểu khác nhau về tư pháp quốc tế nhưng thường tập trung ở hai quan điểm chính: thứ nhất, tư pháp quốc tế bao gồm cả quy phạm thực chất và quy phạm xung đột; thứ hai, tư pháp quốc tế chỉ có quy phạm xung đột vì tư pháp quốc tế điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nên chỉ nhìn nhận tư pháp quốc tế bao gồm quy phạm xung đột hoặc luật xung đột.Tư pháp quốc tế có hai phương pháp điều chỉnh là phương pháp thực chất và phương pháp xung đột.Trong thực tiễn, phương pháp thực chất có nhiều ưu điểm hơn và được sử dụng khá nhiều vi quy phạm thực chất được cụ thể hóa trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương và có tính ràng buộc cao hơn quy phạm xung đột.