luật phá sản doanh nghiệp năm 1993
"luật phá sản doanh nghiệp năm 1993" được hiểu như sau:
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật quy định và điều chỉnh việc phá sản doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam.Luật phá sản doanh nghiệp được Quốc hội Khóa IX, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 30.12.1993, có hiệu lực thi hành từ ngày 01. 7.1994.Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật là tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam khi lâm vào tình trạng phá sản. Đối với các doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng thì Chính phủ sẽ có quy định riêng về việc áp dụng Luật phá sản doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, khi giải quyết việc phá sản phải thực hiện theo các quy định của Luật phá sản doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các văn bản hướng dẫn cụ thể việc giải quyết phá sản phù hợp với đặc thù của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia có những quy định khác.Phá sản là hệ quả tất yếu của kinh tế thị trường, ở đâu có cạnh tranh gay gắt, sâu sắc, thì ở đó, phá sản cũng trở nên phổ biến và nghiêm trọng. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ và những người có liên quan, xác định trách nhiệm của doanh nghiệp mắc nợ, bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động và trật tự, kỷ cương xã hội, góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, Luật phá sản doanh nghiệp đã ra đời.Bố cục và nội dung cơ bản: Luật phá sản doanh nghiệp gồm 52 điều, được sắp xếp trong 6 chương. Chương I - Những quy định chung, gồm 6 điều, xác định phạm vi áp dụng và đối tượng điều chỉnh; nêu khái niệm doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản; quy định việc hòa giải trong quá trình chuẩn bị mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Chương II quy định về thủ tục nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, gồm 8 điều. Các quy định trong chương này hướng dẫn cách soạn đơn, gửi đơn, những người có quyền và nghĩa vụ nộp đơn, các thủ tục nhận đơn và thụ lý đơn, mức phí khi giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Chương III gồm 27 điều, quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, bao gồm các vấn đề: quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của hội nghị chủ nợ; thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp... Chương IV quy định về thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, gồm 7 điều. Chương V gồm 2 điều, quy định việc xử lý vi phạm và hậu quả pháp lý của các thành viên lãnh đạo doanh nghiệp sau khi doanh nghiệp phá sản. Chương VI - Điều khoản thi hành gồm 2 điều.Những điều kiện phát triển kinh tế xã hội khác nhau, cũng như các đặc điểm về lịch sử, văn hóa, tập quán trong mỗi quốc gia có thể ảnh hưởng hoặc chi phối quá trình hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật về phá sản. Song, có thể nói nếu so sánh hệ thống pháp luật về phá sản ở những quốc gia ban hành từ khá sớm như Luật phá sản của Vương quốc Anh năm 1542, Luật phá sản của Cộng hòa liên bang Đức năm 1887, Luật phá sản Singapore năm 1988, Luật phá sản doanh nghiệp Trung Quốc năm 1986, Luật phá sản Thụy Điển năm 1987, Luật phá sản Nam Tư năm 1989, Luật phá sản Cộng hòa liên bang Nga năm 1992 và Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam năm 1993, cho thấy, chúng khá gần nhau về bố cục, cơ cấu và nội dung cơ bản của từng nhóm quy định. Mục đích của pháp luật phá sản ở Việt Nam cũng như của pháp luật phá sản của nhiều nước trên thế giới đều nhằm: bảo vệ quyền về tài sản của các chủ nợ; cơ cấu lại nền kinh tế; bảo vệ quyền lợi của người lao động; bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội.Sau hơn 10 năm thi hành, Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 đã được thay thế bằng Luật phá sản mới, được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15.6.2004.