luật ngân sách nhà nước năm 2002
"luật ngân sách nhà nước năm 2002" được hiểu như sau:
Đạo luật quy định về lập, chấp hành, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, quyết toán ngân sách nhà nước và về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước các cấp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước, được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 16.12.2002, có hiệu lực từ năm ngân sách 2004.Luật nhằm kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế của Luật ngân sách nhà nước năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 1998); bảo đảm phát huy vai trò của ngân sách nhà nước; tăng quyền chủ động, trách nhiệm của địa phương và các ngành trong việc quản lý tài chính - ngân sách; đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính; yêu cầu đặt ra trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và hội nhập quốc tế trong giai đoạn phát triển mới; xây dựng nền tài chính lành mạnh, công khai, minh bạch, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong quản lý ngân sách.Phạm vi điều chỉnh của Luật ngân sách nhà nước năm 2002 là hoạt động lập, chấp hành, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, quyết toán ngân sách nhà nước, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước các cấp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước.Phạm vi áp dụng của luật ngân sách ở các nước phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước, ở các nước tổ chức hệ thống ngân sách thống nhất gồm cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, thì luật ngân sách áp dụng chung cho tất cả các hoạt động ngân sách của chính quyền nhà nước trung ương và địa phương, ở các nước có sự tách biệt giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, thì luật ngân sách nhà nước chỉ áp dụng đối với hoạt động ngân sách của chính quyền trung ương. Hệ thống ngân sách nhà nước của Việt Nam tổ chức theo hệ thống thống nhất, gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, nên Luật ngân sách nhà nước áp dụng chung cho tất cả các hoạt động ngân sách của các cấp chính quyền, tương tự Luật ngân sách nhà nước của một số nước như Trung Quốc (Luật ngân sách nhà nước áp dụng từ năm 1992), Luật ngân sách Liên bang Nga (1991)...Luật ngân sách nhà nước và các quy định về hoạt động ngân sách nhà nước của các cấp chính quyền nhà nước trong các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước là cơ sở pháp lý cơ bản của hoạt động ngân sách nhà nước ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước ta quy định tương đối có hệ thống về hoạt động ngân sách của Nhà nước là Bản điều lệ về lập, chấp hành ngân sách nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 168/CP ngày 20.10.1961. Qua các thời kỳ, để đáp ứng yêu cầu quản lý ngân sách nhà nước, Chính phủ, Bộ Tài chính ban hành nhiều văn bản pháp luật về ngân sách nhà nước. Tuy vậy, sau gần 50 năm xây dựng chính quyền nhân dân, nước ta vẫn chưa có đạo luật về ngân sách nhà nước.Việc xây dựng Luật ngân sách nhà nước được bắt đầu từ giữa năm 1991, sau nhiều lần chỉnh sửa, ngày 20.3.1996, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa IX, tại kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật ngân sách nhà nước, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 1997.Kỳ họp thứ 11 ngày 10.5.1997, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật thuế giá trị gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Để bảo đảm phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách phù hợp với hai luật thuế này và cải tiến quy trình phê chuẩn dự toán ngân sách địa phương của Hội đồng nhân dân các cấp, ngày 20.5.1998, Quốc hội Khóa X, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ngân sách nhà nước năm 1996.Luật ngân sách nhà nước năm 2002 gồm lời nói đầu, 8 chương, 77 điều với những nội dung cơ bản sau: 1) Quy định nguyên tắc hoạt động ngân sách của Nhà nước và hệ thống tổ chức ngân sách nhà nước; 2) Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền nhà nước và trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân về ngân sách nhà nước; 3) Quy định nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp; 4) Quy định lập, chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước; 5) Quy định kiểm tra, thanh tra, kiểm toán ngân sách nhà nước và việc khen thưởng, xử lý vi phạm trong lĩnh vực ngân sách nhà nước.Nội dung của Luật ngân sách nhà nước năm 2002 có những điểm mới cơ bản so với quy định của Luật ngân sách nhà nước năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ngân sách nhà nước năm 1996 là xác định rõ các cấp ngân sách thuộc hệ thống ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách của các đơn vị hành chính có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; bổ sung yêu cầu minh bạch của nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước; phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, còn nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách trong từng địa phương (cấp tỉnh) do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định; trong việc phân bổ ngân sách, Quốc hội chỉ quyết định đối với ngân sách trung ương; quy định rõ thẩm quyền ban hành các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước (xt. Ngân sách nhà nước).