Hệ thống pháp luật

luật khoáng sản năm 1996

"luật khoáng sản năm 1996" được hiểu như sau:

Đạo luật quy định các vấn đề về quản lý, bảo vệ, điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên, khoáng sản và hoạt động khoáng sản, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20.3.1996, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.9.1996.Luật khoáng sản là cơ sở pháp lý để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, bảo vệ, sử dụng hiệu quả mọi tài nguyên khoáng sản của đất nước; khuyến khích phát triển công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, bảo vệ môi trường, môi sinh và an toàn lao động trong hoạt động khoáng sản, nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển bền vững kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài, bảo đảm quốc phòng, an ninh.Đối tượng điều chỉnh và phạm vi áp dụng của Luật khoáng sản là quản lý, bảo vệ, điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên, khoáng sản, bao gồm: khảo sát, thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản ở thể rắn, thể khí, nước khoáng và nước nóng thiên nhiên (riêng dầu khí và các loại nước thiên nhiên khác được điều chỉnh bằng các văn bản pháp luật khác).Luật khoáng sản gồm lời nói đầu, 10 chương với 66 Điều, mỗi chương đều có tên gọi phản ánh những nội dung riêng. Chương I - Những quy định chung (gồm 8 điều): quy định về sở hữu tài nguyên khoáng sản; quy định về đối tượng và phạm vi áp dụng, các vấn đề về quản lý, bảo vệ và sử dụng tài nguyên, khoáng sản; khuyến khích đầu tư hoạt động khoáng sản, phát triển công nghiệp và chế biến khoáng sản; quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được hoạt động khoáng sản và quyền của nhân dân địa phương nơi có khoáng sản được khai thác, chế biến và quy định nghiêm cấm vi phạm pháp luật về khoáng sản. Chương II - Bảo vệ tài nguyên khoáng sản; điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản (gồm 4 điều): quy định về bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác; bảo vệ tài nguyên khoáng sản trong hoạt động thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản; điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản và quy định các mẫu vật, số liệu, thông tin về tài nguyên khoáng sản. Chương III - Khu vực hoạt động khoáng sản, bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản (gồm 8 điều): quy định các vấn đề về khu vực hoạt động khoáng sản; khu vực cấm hoặc tạm thời cấm hoạt động khoáng sản; khu vực có khoáng sản độc hại; bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản; sử dụng đất trong hoạt động khoáng sản; sử dụng nước, sử dụng cơ sở hạ tầng trong hoạt động khoáng sản và bảo hiểm trong hoạt động khoáng sản. Chương IV - Khảo sát khoáng sản (gồm 4 Điều): quy định các vấn đề về giấy phép khảo sát khoáng sản; quyền của tổ chức, cá nhân được phép khảo sát khoáng sản; nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được phép khảo sát khoáng sản và việc thu hồi giấy phép khảo sát khoáng sản. Chương V - Thăm dò khoáng sản (gồm 6 điều): quy định các vấn đề về giấy phép thăm dò khoáng sản; quyền của tổ chức, cá nhân được phép thăm dò khoáng sản; nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được phép thăm dò khoáng sản; đề án thăm dò khoáng sản; thu hồi giấy phép thăm dò khoáng sản và chấm dứt hiệu lực giấy phép thăm dò khoáng sản. Chương VI - Khai thác, chế biến khoáng sản, 23 điều (3 mục): quy định về khai thác khoáng sản; về chế biến khoáng sản; về khai thác tận thu. ChươngVII - Quản lý nhà nước về khoáng sản: quy định các vấn đề về nội dung quản lý nhà nước về khoáng sản; nhiệm vụ của thanh tra chuyên ngành về khoáng sản; thẩm quyền, thủ tục cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép hoạt động khoáng sản; giải quyết tranh chấp về hoạt động khoáng sản. Chương VIII - Thanh tra chuyên ngành về khoáng sản (gồm 5 Điều); quy định các vấn đề về thanh tra chuyên ngành về khoáng sản, thẩm quyền của thanh tra chuyên ngành về khoáng sản; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đối với hoạt động thanh tra chuyên ngành về khoáng sản, quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện. Chương IX - Khen thưởng và xử lý vi phạm (2 điều): gồm các vấn đề về khen thưởng và xử lý vi phạm. Chương X - Điều khoản thi hành (2 Điều), quy định các vấn đề về điều khoản thi hành và hiệu lực thi hành.Luật khoáng sản năm 1996 là một đạo luật quan trọng của hệ thống pháp luật Việt Nam, liên quan chặt chẽ đến một số luật chuyên ngành như Luật đất đai, Luật bảo vệ môi trường, Luật bảo vệ và phát triển rừng..., liên quan đến các điều ước quốc tế về khoáng sản mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Các quy định của Luật khoáng sản đã thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng về khoáng sản, cụ thể hóa Hiến pháp năm 1992 về chiến lược phát triển kinh tế trong lĩnh vực khoáng sản; tiếp tục giải phóng sức sản xuất và tài nguyên của đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.