luật khiếu nại, tố cáo năm 1998
"luật khiếu nại, tố cáo năm 1998" được hiểu như sau:
Văn bản pháp luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo.Luật khiếu nại, tố cáo được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 02.12.1998 và được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 11.12.1998.Đối tượng điều chỉnh của Luật khiếu nại, tố cáo là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo, gồm những quan hệ xã hội phát sinh do việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại: quan hệ giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại; quan hệ giữa người khiếu nại và người có trách nhiệm giải quyết khiếu nại; quan hệ giữa người giải quyết khiếu nại với người bị khiếu nại. Những quan hệ xã hội phát sinh do tố cáo và hoạt động giải quyết tố cáo, bao gồm: quan hệ giữa người tố cáo và người bị tố cáo; quan hệ giữa người tố cáo và người giải quyết tố cáo; quan hệ giữa người giải quyết tố cáo với người bị tố cáo.Về phạm vi điều chỉnh, xuất phát từ thực tế hiện tượng khiếu nại, tố cáo xảy ra thường xuyên ở tất cả các địa phương và trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng khiếu nại, tố cáo là những hiện tượng khác nhau, nên có thể phân biệt giữa phạm vi khiếu nại và phạm vi tố cáo, cụ thể, về phạm vi khiếu nại là: quyết định hành chính; hành vi hành chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức; về phạm vi tố cáo là những hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào. Hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo không bị giới hạn bởi thời hiệu, cũng không bị giới hạn là vi phạm quy phạm pháp luật của ngành luật nào trong hệ thống pháp luật nước ta cũng như bất kỳ chủ thể nào.Vấn đề khiếu nại, tố cáo lần đầu tiên được quy định tại Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991, đã tạo ra cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đã được Hiến pháp quy định. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ một số hạn chế nhất định. Việc ban hành Hiến pháp năm 1992 và cùng với Hiến pháp là nhiều luật chuyên ngành đều có quy định về thẩm quyền, trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo theo từng ngành, càng làm cho quy định của pháp luật không còn phù hợp. Do đó, Luật khiếu nại, tố cáo mới (1998) đã được Quốc hội ban hành trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật và nhiều quy định về khiếu nại, tố cáo của các luật chuyên ngành, khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991, tạo ra sự thống nhất trong các quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo, đồng thời đáp ứng được những yêu cầu của tình hình mới về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh.Về cơ cấu và nội dung cơ bản, Luật có 9 chương với 103 điều. Mỗi chương, mục của Luật khiếu nại, tố cáo có tên gọi phản ánh nội dung chính của chương, mục đó. Chương I - Những quy định chung, quy định chủ thể có quyền khiếu nại, tố cáo; nêu khái niệm về khiếu nại, tố cáo; quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Chương II - Khiếu nại, giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính được chia thành 3 mục. Quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người khiếu nại và người giải quyết khiếu nại quyết định hành chính và hành vi hành chính; thẩm quyền giải quyết khiếu nại; khiếu nại, tố cáo và thủ tục giải quyết khiếu nại. Chương III - Khiếu nại. giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức, quy định thời hiệu khiếu nại; trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết khiếu nại. Chương IV - Tố cáo, giải quyết tố cáo, có 3 mục, quy định về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo; trách nhiệm giải quyết các loại vi phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và thủ tục giải quyết tố cáo. Chương V - Việc tổ chức tiếp công dân, quy định trách nhiệm của Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp, Thanh tra nhà nước các cấp, người trực tiếp tiếp công dân khi công dân đến khiếu nại, tố cáo, đưa đơn khiếu nại, tố cáo. Chương VI - Quản lý công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, quy định nội dung quản lý công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ủy ban nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân các cấp và Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong việc quản lý công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình. Chương VII - Giám sát công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, gồm 2 mục, quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp trong việc thực hiện giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và trách nhiệm của Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Chủ tịch ủy ban nhân dân trong việc thông báo đến ủy ban mặt trận tổ quốc cùng cấp về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm giải quyết của mình. Chương VIII - Khen thưởng và xử lý vi phạm, quy định những trường hợp được khen thưởng và những trường hợp vi phạm bị xử lý theo quy định của pháp luật. Chương IX - Điều khoản thi hành.Sau 6 năm thực hiện, Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội Khóa XI, ngày 15.6.2004, những điều khoản được sửa đổi, bổ sung là những quy định có liên quan đến thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ giải quyết khiếu nại của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, của Tổng thanh tra; bãi bỏ Điều 12 quy định về quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật về khiếu nại, tố cáo; thay cụm từ “Tổng thanh tra nhà nước’’ tại Điều 81 Luật khiếu nại, tố cáo bằng cụm từ " Thanh tra Chính phủ".