Hệ thống pháp luật

luật doanh nghiệp năm 1999

"luật doanh nghiệp năm 1999" được hiểu như sau:

Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về những điều kiện, trình tự thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.Luật doanh nghiệp được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12.6.1999, thay thế Luật công ty năm 1990 và Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990, được sửa đổi, bổ sung năm 1994.Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật là việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội khi được chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần thì được điều chỉnh theo Luật này. Về nguyên tắc, việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam áp dụng theo các quy định của Luật doanh nghiệp và các quy định pháp luật khác có liên quan. Trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật doanh nghiệp và Luật chuyên ngành về cùng một vấn đề, thì áp dụng theo quy định của Luật chuyên ngành.Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân được Quốc hội Khóa VIII thông qua vào cuối năm 1990 (sửa đổi năm 1994) là dấu mốc quan trọng trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới về kinh tế ở Việt Nam. Sau hơn 8 năm tồn tại, Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân đã có những đóng góp tích cực vào thành công của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trước yêu cầu tiếp tục cải cách, huy động nội lực để phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, việc ban hành luật mới là rất cấp bách, trong đó, một số vấn đề liên quan đến thành lập, tổ chức quản lý, chuyển đổi cơ cấu của các hình thức tổ chức kinh doanh và mối liên hệ giữa các bên có liên quan trong hình thức tổ chức kinh doanh đó nhằm tạo ra nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư lựa chọn cần phải được pháp luật quan tâm điều chỉnh và quy định rõ.Luật doanh nghiệp năm 1999 gồm 10 chương với 124 Điều. Chương I - Những quy định chung, gồm 8 điều, xác định phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc áp dụng và quy định quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp. Chương II - Thành lập và đăng ký kinh doanh, gồm 17 Điều, xác định quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp, quyền góp vốn, trình tự thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh; quy định về văn phòng đại diện và chi nhánh của doanh nghiệp, Chương III - Công ty trách nhiệm hữu hạn, gồm 25 điều với 2 mục: "Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên" và “Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên". Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, không được quyền phát hành cổ phiếu, các thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu và chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ, các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Chủ công ty không trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số vốn đã góp vào công ty, mà chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn cho tổ chức hoặc cá nhân khác. Chủ sở hữu công ty cũng không được rút lợi nhuận nếu như công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả... Chương IV - Công ty cổ phần, gồm 44 điều, quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần, các loại cổ phần, quyền và nghĩa vụ của các loại cổ đông, cổ phiếu và việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu và phát hành trái phiếu, chuyển nhượng cổ phần, trả cổ tức... Chương V - Công ty hợp danh, gồm 4 điều, xác định rõ công ty hợp danh là doanh nghiệp có từ 2 thành viên hợp danh trở lên, ngoài ra, có thể còn có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh là cá nhân, phải chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty (trách nhiệm hữu hạn). Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào... Chương VI có 6 điều, quy định về doanh nghiệp tư nhân - doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền cho thuê hoặc bán doanh nghiệp của mình... Chương VII - Tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp, gồm 9 Điều, quy định về việc chia doanh nghiệp, tách doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp, sáp nhập doanh nghiệp, chuyển đổi công ty, giải thể doanh nghiệp, phá sản doanh nghiệp. Chương VIII - Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, gồm 5 điều, quy định về nội dung quản lý nhà nước, cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh, về các hoạt động thanh tra doanh nghiệp... Chương IX - Khen thưởng và xử lý vi phạm, gồm 3 điều, quy định về chế độ khen thưởng, xác định các hành vi vi phạm Luật doanh nghiệp và hình thức xử lý. Chương X - Điều khoản thi hành, gồm 3 điều, xác định hiệu lực thi hành, một số quy định đối với các doanh nghiệp được thành lập trước khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực. Cụ thể là, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân đã thành lập theo Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân trước đây không phải làm thủ tục đăng ký kinh doanh lại. Song, nếu công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có Điều lệ không còn phù hợp với các quy định của Luật doanh nghiệp thì phải sửa đổi, bổ sung điều lệ trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày Luật có hiệu lực. Nếu quá hạn mà không sửa đổi, thì điều lệ bị coi là không hợp lệ. Cùng với hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật doanh nghiệp đã tạo ra bước đột phá trong việc đổi mới các quy định pháp luật xác định địa vị pháp lý của các loại hình kinh doanh ở Việt Nam, góp phần bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho mọi công dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.Tuy nhiên, sau 6 năm thực hiện, Luật doanh nghiệp năm 1999 đã bộc lộ những bất cập của nó. Vì vậy, ngày 29.11.2005 Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp năm 2005. Luật này quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp doanh và doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế; quy định về nhóm công ty. Đối tượng áp dụng của Luật là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp. Luật gồm 10 chương với 171 điều và có hiệu lực thi hành ngày 01.07.2006.