Hệ thống pháp luật

luật các tổ chức tín dụng năm 1997

"luật các tổ chức tín dụng năm 1997" được hiểu như sau:

Đạo luật quy định tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác ở Việt Nam được Quốc hội Khóa X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12.12.1997, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.1998.Mục tiêu của việc ban hành Luật các tổ chức tín dụng là nhằm bảo đảm hoạt động của các tổ chức tín dụng được lành mạnh, an toàn và có hiệu quả; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân; góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Phạm vi điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng là quan hệ tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc áp dụng đạo luật này được phân biệt theo hai trường hợp, đó là đối với các tổ chức tín dụng thì Luật các tổ chức tín dụng điều chỉnh cả về tổ chức và hoạt động. Còn đối với các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng có thực hiện hoạt động ngân hàng thì cũng áp dụng như đối với hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng, còn các quan hệ về tổ chức áp dụng các quy định của pháp luật theo từng loại hình tổ chức. Như vậy, phạm vi điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng rộng hơn Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990. Bởi vì, pháp lệnh này chỉ quy định tổ chức và hoạt động của ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính.Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, do hoàn cảnh lịch sử và điều kiện kháng chiến nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chưa thành lập ngay hệ thống ngân hàng của chế độ mới. Ngày 06.5,1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Theo sắc lệnh này, Ngân hàng quốc gia Việt Nam vừa thực hiện chức năng phát hành tiền, vừa thực hiện các hoạt động tín dụng và các dịch vụ tiền tệ phục vụ kháng chiến, kiến quốc.Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, thực hiện nguyên tắc Nhà nước độc quyền về ngân hàng, Nhà nước duy trì mô hình hệ thống ngân hàng một cấp, không có sự tách bạch giữa hệ thống ngân hàng nhà nước và các ngân hàng chuyên doanh (còn gọi là ngân hàng chuyên nghiệp). Do đó, nội dung các văn bản pháp luật về ngân hàng thời kỳ này không quy định riêng về tổ chức và hoạt động của các tổ chức kinh doanh ngân hàng với tư cách là chủ thể kinh doanh độc lập.Nhiệm vụ và mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường đặt ra yêu cầu phải cải cách cơ bản hệ thống ngân hàng một cấp thành hai cấp, tách chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh của hệ thống ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước ở nước ta. Trên cơ sở kinh nghiệm cải cách thí điểm hệ thống ngân hàng theo Quyết định số 59/QĐ ngày 25.6.1987 của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam, Quyết định số 218/QĐ ngày 03.7.1987 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Nghị định số 53/HĐBT ngày 26.3.1988 của Hội đồng Bộ trưởng, ngày 23.5.1990 Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. Sau hơn 7 năm thực hiện, Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990 cần được sửa đổi, bổ sung và vấn đề tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng ở nước ta trên cơ sở kế thừa, phát triển các quy định của Pháp lệnh đã được nâng lên thành đạo luật để thúc đẩy công cuộc cải cách ngân hàng.Phạm vi điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 của Việt Nam tương tự quy định của nhiều nước trên thế giới như; Cộng hòa liên bang Đức với luật ngành tín dụng năm 1992, Malaysia với luật các tổ chức tài chính và ngân hàng năm 1989... nhưng khác với phạm vi điều chỉnh của luật một số nước, chẳng hạn, Luật ngân hàng thương mại Trung Quốc năm 1995 chỉ áp dụng đối với Ngân hàng thương mại. Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 gồm lời nói đầu, 11 chương, 131 điều, có những nội dung cơ bản sau đây; 1) Quy định chính sách của Nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng; 2) Quy định tổ chức và điều hành của tổ chức tín dụng; 3) Quy định hình thức và phương thức hoạt động của tổ chức tín dụng; 4) Quy định các biện pháp bảo đảm an toàn ngân hàng; 5) Quy định kiểm soát đặc biệt, phá sản, giải thể, thanh lý tổ chức tín dụng; 6) Quy định hình thức tổ chức, điều kiện hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam, 7) Quy định về quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm toán đối với tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; 8) Quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm trong lĩnh vực ngân hàng.Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 là văn bản luật đầu tiên ở Việt Nam quy định có hệ thống về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng, trong đó có nhiều quy định mới như Ngân hàng nhà nước Việt Nam đồng thời cấp, thu hồi giấy phép thành lập, giấy phép hoạt động cho các tổ chức tín dụng, quy định ngân hàng cổ phần phải có cổ phần của Nhà nước; không cho phép thành lập ở Việt Nam ngân hàng 100% vốn nước ngoài; áp dụng chế độ kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng thanh toán nợ... Đây là đạo luật đóng vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay, để củng cố và nâng cao hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác, ngày 15.6.2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XI, kỳ họp thứ 5, đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng. Theo đó, Điều 4, Điều 12, Điều 20, Điều 30, Điều 31, Điều 32, Điều 37, Điều 38, Điều 39, Điều 42, Điều 45, Điều 46, Điều 52, Điều 53, Điều 57, Điều 79, Điều 81, Điều 84, Điều 105, Điều 122 là những điều được sửa đổi, bổ sung và các điều 6, 7, 8, 9, 10, 43,85,86 bị bãi bỏ.Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 01.10.2004.