Hệ thống pháp luật

luật bảo vệ môi trường năm 1993

"luật bảo vệ môi trường năm 1993" được hiểu như sau:

Văn bản pháp luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể tham gia sử dụng hoặc tác động đến các yếu tố của môi trường.Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa IX kỳ họp thứ tư thông qua ngày 27.12.1993, Chủ tịch nước công bố ngày 10.01.1994 bởi Lệnh số 29/L-CTN.Đối tượng điều chỉnh của Luật bảo vệ môi trường là các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể tham gia sử dụng hoặc tác động đến các yếu tố môi trường bao gồm các loại quan hệ: 1) Các quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động quản lý nhà nước về môi trường gồm có: quan hệ phát sinh từ hoạt động đánh giá tác động của môi trường; từ thanh tra việc thực hiện pháp luật và chính sách về môi trường đến quan hệ phát sinh trong việc xử lý vi phạm pháp luật về môi trường; 2) Các quan hệ phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức với nhau về bồi thường thiệt hại giữa các bên do hành vi gây ra ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường; quan hệ phát sinh trong quá trình hợp tác khắc phục hậu quả do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường gây ra; các quan hệ phát sinh trong việc giải quyết các tranh chấp môi trường; quan hệ phát sinh trong việc phối hợp đầu tư vào các công trình bảo vệ môi trường.Về phạm vi điều chỉnh, Luật bảo vệ môi trường điều chỉnh các hành vi của các cơ quan, các tổ chức, cá nhân trong nước; các tổ chức quốc tế; các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia sử dụng hoặc tác động đến các yếu tố môi trường trên toàn lãnh thổ, vùng lãnh hải và thềm lục địa của Việt Nam.Trong điều kiện trước đây, một phần do chiến tranh, vấn đề môi trường chưa được thật sự quan tâm, còn thiếu văn bản pháp luật quy định về bảo vệ môi trường. Trong tiến trình đổi mới toàn diện, cùng với việc mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, đặc biệt là hợp tác phát triển kinh tế đối với các nước trong khu vực và quốc tế, tuy nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, nhưng đất nước cũng đối mặt với một thực trạng đáng quan tâm là môi trường ngày càng bị hủy hoại và hậu quả của nó gây ra ngày càng nghiêm trọng, suy thoái nặng. Công tác quản lý nhà nước về môi trường chưa được quan tâm đúng mức và còn thiếu kinh nghiệm. Trước tình hình đó, Nhà nước đã ban hành một số văn bản pháp luật để giải quyết những vấn đề cấp bách về bảo vệ một số thành phần môi trường hoặc quy định một số hoạt động có ảnh hưởng đến môi trường như Pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thủy sản năm 1989, Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991; Pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật năm 1993. Mặt khác, nước ta đã ký kết hoặc tham gia một số công ước quốc tế về bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, việc ban hành Luật bảo vệ môi trường là yêu cầu cần thiết đặt ra đối với đất nước và phù hợp với yêu cầu chung của thế giới. Trước bối cảnh đó, Luật bảo vệ môi trường đã được thông qua, trực tiếp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, xác định trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ môi trường.Về cơ cấu và nội dung cơ bản, Luật có lời nói đầu và 7 chương với 55 điều. Mỗi chương đều có tên gọi phản ánh nội dung chính của chương. Lời nói đầu xác định tầm quan trọng đặc biệt của môi trường và mục đích của việc ban hành Luật. Chương I - Những quy định chung, quy định khái niệm môi trường, bảo vệ môi trường; quy định chung về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong việc bảo vệ môi trường. Chương II - Phòng, chống suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường. Chương III - Khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường, quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong việc áp dụng các biện pháp để khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường. Chương IV - Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo vệ môi trường và quyền khiếu nại, tố cáo của các tổ chức, cá nhân đối với các quyết định xử lý của cơ quan thanh tra về môi trường và đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Chương V - Quan hệ quốc tế về bảo vệ môi trường, quy định nguyên tắc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong công tác bảo vệ môi trường. Chương VI - Khen thương và xử lý vi phạm. Chương VII - Điều khoản thi hành.Qua 12 năm thực hiện, Luật bảo vệ môi trường năm 1993 đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Tuy nhiên, trước yêu cầu của thực tiễn hiện nay, Luật bảo vệ môi trường năm 1993 đã bộc lộ những hạn chế của nó. Vì vậy, Luật bảo vệ môi trường năm 2005 đã được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29.11.2005. Luật này quy định về hoạt động bảo vệ môi trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo vệ môi trường. Luật được áp dụng đối với cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Luật gồm 15 chương với 136 Điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.07.2006.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Luật bảo vệ môi trường năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 23 tháng 06 năm 2014.