Hệ thống pháp luật

luận tội

"luận tội" được hiểu như sau:

Lời trình bày của Kiểm sát viên phân tích tội trạng, đề nghị kết tội bị cáo khi việc xét hỏi đã kết thúc, chuyển qua phần tranh luận, tranh tụng tại phiên tòa.Khi thành lập các Tòa án quân sự tháng 9 năm 1945, pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam đã quy định buộc tội là một thủ tục bắt buộc tại phiên tòa. Điều 5 Sắc lệnh ngày 13.9.1945 thiết lập các Tòa án quân sự quy định; “đứng buộc tội là một ủy viên quân sự hay một ủy viên của ban trình sát”. Các ủy viên quân sự hay ủy viên của ban trình sát có nhiệm vụ buộc tội bị cáo tại phiên tòa. Như vậy, việc buộc tội bị cáo tại phiên tòa ra đời cùng với hệ thống Tòa án của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và tồn tại cho đến ngày nay. Trong quá trình đó, nội dung và thủ tục buộc tội đã có sự thay đổi và ngày càng hoàn thiện. Hiện nay, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định buộc tội bị cáo là nhiệm vụ của Kiểm sát viên. Để giúp cho Tòa án có cơ sở giải quyết đúng đắn vụ án, thi sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội. Trong lời luận tội, Kiểm sát viên phân tích, đánh giá toàn diện các chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa, cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, cả tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ. Nếu có căn cứ để kết tội thì Kiểm sát viên đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn; nếu thấy không có đủ căn cứ để kết tôi thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không phạm tội.Trong vụ án có nhiều bị cáo, Kiểm sát viên phải chứng minh tội trạng, đánh giá vai trò, vị trí của từng bị cáo, trên cơ sở đó đề nghị với hội đồng xét xử áp dụng hình phạt đối với từng bị cáo cho phù hợp.