Hệ thống pháp luật

kiểm toán nhà nước

"kiểm toán nhà nước" được hiểu như sau:

Kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp.Hoạt động kiểm toán nhà nước được thực hiện bởi hệ thống cơ quan kiểm toán nhà nước.Kiểm toán nhà nước có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch kiểm toán hàng năm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; cung cấp kết quả kiểm toán cho Chính phủ và cho các cơ quan nhà nước khác theo quy định của Chính phủ; xác nhận, đánh giá và nhận xét các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán đã được kiểm toán; góp ý kiến với các đơn vị được kiểm toán sửa chữa những sai sót, vi phạm để chấn chỉnh công tác quản lý tài chính; kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý những vi phạm chế độ kế toán, tài chính của Nhà nước.Trong khi thực hiện nhiệm vụ trên, kiểm toán nhà nước chỉ tuân theo pháp luật. Kiểm toán nhà nước có quyền yêu cầu đơn vị được kiểm toán và các đơn vị có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán.Cơ cấu tổ chức của cơ quan kiểm toán nhà nước gồm các bộ phận chủ yếu là: 1) Kiểm toán ngân sách nhà nước; 2) Kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản và các chương trình, dự án vay, nợ, viện trợ chính phủ; 3) Kiểm toán doanh nghiệp nhà nước; 4) Kiểm toán chương trình đặc biệt như an ninh, quốc phòng, dự trữ quốc gia.Kiểm toán nhà nước là thuật ngữ mới xuất hiện trong hệ thống pháp luật Việt Nam trong thời kỳ đổi mới - từ khi Nhà nước ban hành Nghị định số 70/CP ngày 11.7.1994 về thành lập cơ quan kiểm toán nhà nước.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, kiểm toán nhà nước được quy định tại Luật kiểm toán nhà nước năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 06 năm 2015.