Hệ thống pháp luật

kiểm dịch động vật

"kiểm dịch động vật" được hiểu như sau:

Kiểm tra của cơ quan thú y trong quá trình sản xuất, lưu thông động vật nhằm phát hiện bệnh truyền nhiễm, ký sinh trùng của động vật đã có hoặc chưa có ở trong nước; bệnh truyền nhiễm, ký sinh trùng của động vật nuôi thuộc diện kiểm dịch quốc tế và các bệnh phải kiểm tra theo hiệp định mua bán, trao đổi, viện trợ ký với nước ngoài; kiểm tra chất độc, chất nội tiết, chất kháng sinh gây hại cho người và động vật để bảo vệ sản xuất và sức khỏe cộng đồng.Danh mục các bệnh và chất độc hại phải kiểm tra trong từng thời kỳ nhất định do Nhà nước quy định cụ thể. Đối tượng kiểm dịch động vật bao gồm: 1) Động vật và sản phẩm động vật; 2) Thức ăn chăn nuôi và môi trường chăn nuôi; 3) Cơ sở chăn nuôi, giết mổ, chế biến, bảo quản, lưu thông động vật và sản phẩm động vật; các dụng cụ, phương tiện dùng để giết mổ, vật liệu bao bì đóng gói, chứa đựng, lưu thông, vận chuyển động vật, sản phẩm động vật.Động vật nuôi, săn, đánh bắt, sản phẩm động vật thuộc danh mục đối tượng kiểm dịch khi đưa từ địa phương này đến địa phương khác phải được sự đồng ý của cơ quan thú y có thẩm quyền nơi xuất phát kiểm dịch và cấp giấy chứng nhận kiểm dịch.Kiểm dịch động vật nhằm đảm bảo sự an toàn vệ sinh cho con người và vật nuôi nhằm ổn định xã hội và phát triển sản xuất, bảo vệ sức khỏe cộng đồng.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, kiểm dịch động vật được quy định tại Chương III Luật thú y năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 19 tháng 06 năm 2015