khu mật viện
"khu mật viện" được hiểu như sau:
Cơ quan của Nhà nước phong kiến Trung Quốc, xuất hiện từ thời Đường (thế kỷ VII - X), còn có các tên gọi : Điền khu mật, Chưởng khu mật, Tri khu mật, Khu mật sứ..., giữ việc nhận và truyền đạt các mệnh lệnh của Hoàng đế giao cho các cơ quan thi hành. Những viên quan nắm quyền này thường lấy danh nghĩa nhiệm vụ của mình để tham dự triều chính, tiến đến đoạt cả chức Tể tướng. Dần dần, Tể tướng nắm quyền cai quản Khu mật viện. Đến thời Nguyên, năm 1263 Khu mật viện nắm việc quân sự cơ yếu và sự vụ hành chính quân sự.Ở Việt Nam, thời Lý đặt Khu mật sứ, có Tả sứ và Hữu sứ coi việc dân.Thời Trần, đổi là Khu mật viện, có Đại sứ, Phó sứ, được dự bàn việc triều chính. Năm 1342, lấy Nguyễn Trung Ngạn làm Hành khiển, Tri Khu mật viện sự, lãnh cả cấm quân (trước đó, Cấm quân thuộc Thượng thư sảnh) nên vai trò của Khu mật viện càng quan trọng.Thời Lê, buổi đầu đặt Nội mật viện, có các chức: Viện sứ, Phó sứ, Tri viện sự, Đồng tri Thiêm tri viện sự. Đến năm 1471, Lê Thánh Tông định lại quan chế, bãi bỏ Nội mật viện. Đầu niên hiệu Lê Chiêu Thống (1787 - 1788), lại đặt Khu mật viện nhưng rồi lại bãi bỏ.Thời Nguyễn, từ đầu năm 1835, đặt Cơ mật viện gồm 4 quan đại thần (kiêm nhiệm) do vua lựa chọn trong hàng các quan văn võ có trật từ tam phẩm trở lên và 8 viên quan giúp việc có trật từ thất phẩm đến ngũ phẩm. Cơ mật viện lúc đầu có nhiệm vụ giải quyết các việc quân sự hệ trọng, dần dần nắm cả tình trạng an ninh chính trị trong toàn quốc và các việc liên quan đến tình hình chính trị, quân sự của các nước lân cận để đề xuất các phương án đối phó. Cơ mật viện có 2 ban: Bắc Chương kinh (sau đổi thành Bắc Ti) phụ trách các việc liên quan đến các tỉnh ngoài Bắc (từ Hà Tĩnh trở ra) và Nam Chương kinh (Nam Ti) phụ trách các việc liên quan đến các tỉnh từ Quảng Bình trở vào.