Hệ thống pháp luật

không tố giác tội phạm

"không tố giác tội phạm" được hiểu như sau:

Không thông báo cho cơ quan có trách nhiệm về tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà mình biết rõ và có điều kiện để thông báo.Không tố giác tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoạt động bình thường của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Không tố giác tội phạm được quy định trong Luật hình sự Việt Nam là tội phạm với tội danh chung là không tố giác tội phạm kể từ khi Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ luật hình sự năm 1985) có hiệu lực. Trong Bộ luật hình sự năm 1999, không tố giác tội phạm tiếp tục được quy định là tội phạm thuộc Chương “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp".Theo quy định của Bộ luật hình sự, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không tố giác tội phạm phụ thuộc chủ yếu vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không bị tố giác. Do vậy, Bộ luật hình sự đã liệt kê các tội phạm mà hành vi không tố giác những tội này có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội và bị coi là tội phạm như tội giết người, tội tội hiếp dâm trẻ em, tội cướp tài sản... Cách quy định này tuy cụ thể nhưng cũng có hạn chế là quá dài, thiếu tính khái quát.Hình phạt được quy định cho tội này có mức cao nhất là 3 năm tù. Tuy nhiên, người không tố giác tội phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu họ là ông, bà, cha, mẹ, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội (trừ trường hợp người này phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng). Người không tố giác tội phạm có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu họ đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, không tố giác tội phạm  được quy định tại Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng  11 năm 2015.