Hệ thống pháp luật

không quốc tịch

"không quốc tịch" được hiểu như sau:

Một người không có quốc tịch của bất kỳ quốc gia nào.Nguyên nhân dẫn đến tình trạng không quốc tịch là do có sự xung đột pháp luật giữa các nước về cách thức hưởng và mất quốc tịch, do người đã mất quốc tịch cũ mà chưa nhận được quốc tịch mới...Do không có quan hệ quốc tịch với một nhà nước nào nên địa vị pháp lý của người không quốc tịch có những hạn chế nhất định và bất lợi trong việc hưởng sự bảo hộ của Nhà nước. Họ phải tuân thủ pháp luật của nước nơi họ đang sinh sống nhưng vấn đề bảo hộ khi quyền lợi hợp pháp của họ bị xâm hại là rất phức tạp.Để hạn chế và tiến tới xóa bỏ tình trạng này, các nước trên thế giới đều cố gắng hoàn thiện các văn bản pháp luật của nước mình, ký kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương về vấn đề quốc tịch nhằm tạo điều kiện thuận lợi để người không quốc tịch có thể được nhận quốc tịch của nước nơi họ đang sinh sống. Đã có một số văn bản pháp lý quốc tế được ký kết về vấn đề người không quốc tịch như: Công ước về hạn chế tình trạng không quốc tịch năm 1961, Công ước về quy chế người không quốc tịch năm 1954...Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, không quốc tịch  được quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 do Quốc hội khóa 12 ban hành ngày 13 tháng 11 năm 2008.