Hệ thống pháp luật

khế ước

"khế ước" được hiểu như sau:

Khái niệm trong dân luật để chỉ những giao dịch dân sự dựa trên thỏa thuận giữa các bên.Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, khế ước là thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở thời kỳ trước và sau khi giành độc lập dân tộc năm 1945, do ảnh hưởng của thuật ngữ pháp lý trong luật dân sự của Pháp như trong dân pháp điển Bắc Kỳ, dân pháp điển Trung Kỳ, pháp quy giản yếu năm 1883 thi hành ở Nam Kỳ.Trong sắc lệnh số 97/SL của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 22.5.1950 quy định:“Khi lập ước mà có sự tổn thất do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế của hai bên chênh lệch thì khế ước có thể coi là vô hiệu” (Điều 13).Như vậy, khế ước là giao dịch dân sự được thiết lập trên cơ sở thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Nói một cách trực tiếp, khế ước là hợp đồng.Nội dung chủ yếu của hợp đồng là những điều khoản mà thiếu những điều khoản đó thì hợp đồng không thể giao kết được. Những vấn đề thuộc nội dung chủ yếu của hợp đồng do pháp luật quy định, nếu pháp luật không quy định thì theo thoả thuận của các bên. Tùy theo loại hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận những nội dung chủ yếu như: đối tượng của hợp đồng; số lượng; chất lượng; giá; phương thức thanh toán; thời hạn; địa điểm; quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng...Hợp đồng được thực hiện trên nguyên tắc trung thực, hợp tác, có lợi nhất cho các bên, đảm bảo sự tin cậy lẫn nhau, không xâm hại lợi ích của quốc gia, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích của người khác.