khám xét
"khám xét" được hiểu như sau:
Biện pháp điều tra được tiến hành bằng cách tìm tòi, lục soát khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm nhằm phát hiện, thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án cũng như xác chết hay người đang bị truy nã.Trong thời kỳ 1945 - 1954, có rất ít văn bản pháp luật quy định về thẩm quyền, thủ tục tiến hành khám xét. Các biện pháp thu giữ thư tín, điện tín chưa được quy định. Chỉ có biện pháp khám nhà người phạm pháp quả tang là được quy định trong một số văn bản như sắc lệnh số 181 ngày 20.7.1946 sau đó bổ sung bằng sắc lệnh số 88/SL ngày 02.8.1949 ấn định quyền hạn và thủ tục khám nhà của Ban Tư pháp xã. Sau khi hòa bình lập lại, quyền tự do dân chủ của công dân được quan tâm hơn. Luật số 103-SL/L.005 ngày 20.5.1957, Điều 27, Điều 28 Hiến pháp năm 1959 đều quy định về bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm về nhà ở, đồ vật, thư tín của công dân.Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 lần đầu tiên quy định cụ thể căn cứ, thẩm quyền và thủ tục khám xét. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã kế thừa và phát triển quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, theo đó, chỉ được tiến hành khám người, chỗ ở, địa điểm khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, địa điểm đó có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác liên quan đến vụ án hay có người đang bị truy nã ẩn náu. Việc khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm chỉ được tiến hành khi cần phải thu thập những tài liệu hoặc đồ vật liên quan đến vụ án có ở trong thư tín, bưu kiện, bưu phẩm đó. Người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam có quyền ra lệnh khám xét. Lệnh khám xét của Trưởng Công an, Phó Trưởng công an cấp huyện: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp trong Quân đội nhân dân phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong trường hợp không thể trì hoãn thì những người có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp có quyền ra lệnh khám xét. Sau khi khám xong, trong thời hạn 24 giờ, người ra lệnh khám phải báo cáo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp.Khi tiến hành khám xét phải lập biên bản ghi rõ địa điểm, giờ, ngày, tháng, năm tiến hành khám xét; thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc cuộc khám xét, đồ vật, tài liệu... đã phát hiện và thu giữ, địa điểm và thủ đoạn cất giấu; những tình tiết phức tạp xảy ra trong khi khám xét, thái độ của người bị khám và những người có mặt tại khu vực khám xét; những khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị của đương sự. Biên bản phải lập tại nơi tiến hành khám xét và đọc lại cho mọi người có mặt cùng nghe; người bị khám xét, chủ nhà, người chứng kiến cùng ký xác nhận vào biên bản.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, khám xét được quy định tại Chương XIII Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.