Hệ thống pháp luật

khám người

"khám người" được hiểu như sau:

Tìm tòi, lục soát trong người, quần áo đang mặc và các đồ vật đem theo nhằm phát hiện, thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án do Điều tra viên tiến hành khi có căn cứ để nhận định có trong người đối tượng bị khám.Khám người là biện pháp cưỡng chế có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân nên pháp luật tố tụng hình sự quy định rất chặt chẽ. Luật 103-SL/L.005 ngày 20.5.1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân đã quy định căn cứ, thẩm quyền và thủ tục bắt người. Thực tiễn áp dụng văn bản pháp luật này là cơ sở để xây dựng các quy định về khám người trong Bộ luật tố tụng hình sự. Việc khám người chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do người khác phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Những người bị khám có thể là bị can, bị cáo, người bị bắt trong các trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người đang bị truy nã hoặc người có mặt tại nơi khám xét khi có căn cứ cho rằng họ giấu trong người đồ vật cần thu giữ. Chỉ những người có thẩm quyền ra lệnh khám xét mới có quyền ra lệnh khám người (Xt. Khám xét).Khi bắt đầu khám người, Điều tra viên phải đọc lệnh khám và đưa cho đương sự đọc lệnh khám đó; giải thích cho đương sự và những người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ; yêu cầu đương sự đưa ra những đồ vật có liên quan đến vụ án, nếu đương sự từ chối thì mới tiến hành khám.Việc khám người thường được tiến hành theo hai bước: khám xét sơ bộ và khám xét chi tiết. Khám xét sơ bộ được tiến hành ngay sau khi bắt nhằm tước vũ khí của người bị bắt. Khám xét chi tiết được tiến hành ở nơi kín đáo. Khi khám người phải theo thủ tục nam khám nam, nữ khám nữ và phải có người cùng giới chứng kiến. Người tiến hành khám xét phải tôn trọng và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, tài sản của người bị khám xét.Trong trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người đồ vật, tài liệu cần thu giữ thì có thể tiến hành khám người mà không cần phải có lệnh.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, khám xét người được quy định tại Điều 194 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2013.