Hệ thống pháp luật

khám chỗ ở

"khám chỗ ở" được hiểu như sau:

Tìm tòi, lục soát chỗ ở của người bị khám xét để phát hiện và thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án cũng như xác chết hay người đang bị truy nã.Chỗ ở có thể là nhà riêng, căn hộ tập thể, phòng trọ hoặc phương tiện giao thông vận tải như xe, tàu, thuyền đang được sử dụng để ở. Chỗ ở còn bao gồm cả vùng phụ cận như vườn, đất thuộc khu vực chỗ ở của người bị khám xét và công trình phụ trên đất đó.Trước đây, việc khám chỗ ở được quy định trong Sắc lệnh số 181 ngày 20.7.1946, sau đó được bổ sung bằng sắc lệnh số 88/SL ngày 02.8.1949 ấn định quyền hạn và thủ tục khám nhà của Ban Tư pháp xã; Luật số 103-LS/L005 ngày 20.5.1957; sau đó được ghi nhận tại Điều 27 và 28 Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959. Tuy nhiên, các quy định về khám chỗ ở trong các văn bản này còn chưa cụ thể. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 trước đây và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định đầy đủ hơn về căn cứ, trình tự và thủ tục khám chỗ ở. Theo đó, việc khám chỗ ở chỉ được tiến hành khi có căn cứ luật định và phải có lệnh khám của người có thẩm quyền. Khi bắt đầu khám chỗ ở, Điều tra viên phải đọc và đưa cho đương sự xem lệnh khám; giải thích cho đương sự và những người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ; yêu cầu đương sự đưa ra những đồ vật có liên quan đến vụ án, nếu đương sự từ chối thi tiến hành khám.Khi khám chỗ ở phải có mặt người chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình họ, có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng chứng kiến; trong trường hợp đương sự và người trong gia đình họ cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc đi vắng lâu ngày mà việc khám xét không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và hai người láng giềng chứng kiến.Không được khám chỗ ở, vào ban đêm (từ 22 giờ ngày hôm trước đến 6 giờ sáng ngày hôm sau), trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.Khi tiến hành khám chỗ ở những người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang bị khám, không được liên hệ, trao đổi với nhau hoặc với những người khác cho đến khi khám xong.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, khám chỗ ở được quy định tại Điều 195 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2013.