khách thể của quan hệ pháp luật đất đai
"khách thể của quan hệ pháp luật đất đai" được hiểu như sau:
Toàn bộ vốn đất quốc gia, từng loại đất cụ thể mà trên đó Nhà nước thiết lập từng chế độ pháp lý nhất định.Theo Điều 13 Luật đất đai năm 2003, đất đai được phân loại như sau: 1) Nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất: đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác; đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất; đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối; đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ; 2) Nhóm đất phi nông nghiệp bao gồm các loại đất: đất ở gồm đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị; đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình sự nghiệp; đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp gồm đất xây dựng khu công nghiệp; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm; đất sử dụng vào mục đích công cộng gồm đất giao thông, thủy lợi; đất xây dựng các công trình văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao phục vụ lợi ích công cộng; đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; đất xây dựng các công trình công cộng khác theo quy định của Chính phủ; đất do các cơ sở tôn giáo sử dụng; đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ; đất làm nghĩa trang, nghĩa địa; đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng; đất phi nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ; 3) Nhóm đất chưa sử dụng bao gồm các loại đất chưa xác định mục đích sử dụng.Các nhóm đất nêu trên là khách thể của từng chế độ pháp lý đất tương ứng.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, đất đai được phân loại theo quy định tại Điều 10 Luật đất đai 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2013.