Hệ thống pháp luật

hương ước

"hương ước" được hiểu như sau:

Văn bản ghi những điều quy ước mà mọi người trong một làng phải tuân theo và thực hiện. Là văn bản tổng hợp, hàm chứa nội dung rất đa dạng, phong phú, bao trùm nhiều mặt sinh hoạt cộng đồng nông thôn.Đặc điểm của hương ước thể hiện ở chỗ nó là sự thỏa thuận, cam kết, tự cam kết với nhau của một cộng đồng dân sư nhất định. Hương ước gắn chặt với đời sống làng xã trên cơ sở kế thừa những mặt tích cực của phong tục tập quán truyền thống nhưng phải phù hợp với pháp luật của nhà nước. Là công cụ chuyển tải của pháp luật đến từng người dân, đồng thời, bổ sung những nội dung mà pháp luật chưa quy định cụ thể phù hợp với điều kiện và đặc thù của làng xã.Hương ước có giá trị như là một văn bản thể hiện quyền tự quả của một cộng đồng, thể hiện quyền làm chủ của cộng đồng trong vấn đề kinh tế - xã hội, an ninh chính trị, an toàn xã hội và đặc biệt là về văn hóa, …của cộng đồng dân cư. Hương ước có thể thể hiện dưới tên gọi như Quy ước làng, Quy ước lại kỷ cương xã hội…Hương ước Việt Nam xuất hiện trong thế kỷ XV và theo quá trình phát triển làng Việt, tộc họ, phường hội, tiếp tục được củng cố trong thể kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XX. Có thể nói, Hương ước là công cụ góp phần quản lý xã hội trong phạm vi thôn, làng Việt Nam qua nhiều thập kỷ.Trong chế độ phong kiến, hương ước tồn tại song song với pháp luật Nhà nước phong kiến, giữ gìn bản sắc và sự phát triển của dân tộc.Sau Cách mạng tháng Tám, do những biến đổi về mặt xã hội, cơ cấu tổ chức của chính quyền cơsở ở nông thôn cũng như nhận thức của nhân dân nên hương ước không được thừa nhận và duy trì. Từ năm 1989 đến nay, việc ban hành hương ước được thực hiện công khai và trên diện rộng. Đó là kết quả của cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hóa mới trong toàn quốc.Để khuyến khích xây dựng hương ước nhằm phát triển nông thôn mới, Hội nghị trung ương Đảng (khóa 7) đã có Nghị quyết về ban hành hương ước. Tuy nhiên, việc xây dựng hương ước vẫn còn mang tính tự phát thiếu tính thống nhất, vì thế công tác quản lý nhà nước là rất cần thiết.Hương ước, theo quan điểm của các nhà nghiên cứu về hương ước có 2 loại: 1) Hương ước cũ (trước 8.1945): chỉ liên quan đến tục lệ từng làng là chính, do vậy, có khi đối lập với luật nước; do một nhóm nho sĩ soạn thảo, dân không được bàn bạc tham gia, góp ý; mục đích bảo vệ quyền lợi của một nhóm người theo “đẳng cấp”, chức sắc; 2) Hương ước mới: có nội dung liên quan đến nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở từng làng trong sự nghiệp xây dựng nông thôn mới, bảo vệ quyền lợi cho nhân dân lao động trong làng xã, xóa bỏ hủ tục, đẩy lùi mê tín,… nhằm tạo không khí dân chủ, đoàn kết trong làng xã. Hương ước mới được thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục để mọi người tự giác tuân theo. Xây dựng hương ước mới giúp các trưởng thôn thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước ở cơ sở tạo nên ý thức tự quản cao đến tận từng gia đình trong làng xóm. Hương ước mới xây dựng trên cơ sở phát huy dân chủ cộng đồng, mặt khác đảm bảo không trái với pháp luật. Hương ước do các làng tự xây dựng và ràng buộc nhau thực hiện, thường có tên gọi là "quy ước làng văn hóa".