hương hỏa
"hương hỏa" được hiểu như sau:
Phần tài sản do người đã chết để lại dùng cho việc thờ cúng, chăm sóc phần mộ của người để lại hương hỏa và tổ tiên của người đó.Thờ cúng người bề trên đã chết là tập tục từ ngàn xưa của người Việt Nam và trong các bộ luật cổ của nước ta đểu có quy định về hương hỏa. Trong xã hội phong kiến dưới ảnh hưởng của tư tưởng “trọng nam, khinh nữ hương hỏa thường chỉ được giao cho con trai thuộc dòng trưởng, tuy nhiên, trong một số thời kỳ nếu người quá cố không có con trai nối dõi tông đường thì người con gái cũng có thể được giao hương hỏa như Điều 391 Bộ luật Hồng Đức quy định "... không có trai trưởng thì dùng gái trưởng, ruộng đất hương hỏa cho lấy một phần 2”. Tài sản dùng làm hương hỏa thường là ruộng đất, vườn tược... Hoa lợi sinh ra từ việc khai thác hương hỏa được dùng để thờ cúng, chăm sóc phần mộ của người đã để lại hương hỏa và tổ tiên của người đó (nếu cần). Tài sản hương hỏa không ai có quyền mua bán.Khái niệm hương hỏa được kế thừa thành khái niệm "di sản dùng vào việc thờ cúng" lần đầu tiên được quy định tại Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và tiếp tục được quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật dân sự năm 2005, theo đó, bất kỳ người lập di chúc nào cũng có quyền để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng và chỉ định người quản lý phần di sản đó, trừ trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó. Phần di sản dùng vào việc thờ cúng không được chia thừa kế mà được giao cho người đã được chi định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng. Nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản này cho người khác quản lý để thờ cúng. Nếu người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng, thì những người thừa kế có thể cử một người quản lý di sản thờ cúng.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, di sản dùng vào việc thờ cũng được quy định tại Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015.