hợp tác xã tín dụng
"hợp tác xã tín dụng" được hiểu như sau:
Tổ chức kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng thuộc sở hữu tập thể do tổ chức, cá nhân góp vốn thành lập để hoạt động ngân hàng, tự huy động vốn và cho vay trong phạm vi vốn huy động, nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ, giúp đỡ các thành viên trong tổ chức mình. Là tổ chức kinh doanh tín dụng được Nhà nước cho phép thành lập và chịu sự quản lý của Ngân hàng nhà nước về mặt chính sách chế độ tín dụng tiền tệ.Ở Việt Nam, các hợp tác xã tín dụng được thành lập ở miền Bắc từ ngày khôi phục kinh tế sau khi kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1954 - 1957) và ở miền Nam từ sau ngày giải phóng năm 1975. Đến cuối năm 1990 cả nước có gần 8.000 hợp tác xã tín dụng. Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, các hợp tác và tín dụng hoạt động theo cơ chế cũ không còn phù hợp nữa, hàng loạt các hợp tác xã tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, đổ vỡ dây chuyền. Trước tình hình đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về các loại hình tổ chức kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng dưới hình thức tổ chức tín dụng hợp tác và hoạt động theo nguyên tắc chung là tự nguyện góp vốn của tổ chức, cá nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động, mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên. Hợp tác xã tín dụng có các đặc điểm chủ yếu là: là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, tự chủ và hoạt động mang tính xã hội cao; vốn do thành viên đóng góp và thuộc sở hữu tập thể; mục tiêu hoạt động chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên; kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng; tổ chức và hoạt động vừa thuộc phạm vi áp dụng Luật hợp tác xã vừa thuộc phạm vi áp dụng Luật ngân hàng; thành viên tham gia quản lý hợp tác xã tín dụng theo nguyên tắc dân chủ và bình đẳng.