hợp đồng sử dụng tác phẩm
"hợp đồng sử dụng tác phẩm" được hiểu như sau:
Sự thỏa thuận giữa tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm về việc chuyển giao tác phẩm thuộc sở hữu của mình cho cá nhân, tổ chức khác được quyền sử dụng tác phẩm đó.Đối tượng của hợp đồng là quyền sử dụng tác phẩm. Hợp đồng sử dụng tác phẩm phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.Tùy theo từng loại hợp đồng sử dụng tác phẩm, các bên thỏa thuận những nội dung chủ yếu về hìnhthức sử dụng tác phẩm, phạm vi, thời gian sử dụng tác phẩm, mức nhuận bút hoặc thù lao và phương thức thanh toán... Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm có nghĩa vụ chuyển giao tác phẩm cho bên sử dụng tác phẩm theo đúng thời hạn, địa điểm đã thỏa thuận; bồi thường thiệt hại xảy ra cho bên sử dụng tác phẩm do việc chuyển giao tác phẩm không đúng thời hạn, địa điểm; không được chuyển giao tác phẩm cho chủ thể khác sử dụng khi chưa hết hạn hợp đồng nếu không có sự cho phép của bên sử dụng tác phẩm, nếu có vi phạm gây thiệt hại thì phải bồi thường và chấm dứt vi phạm; có quyền yêu cầu bên sử dụng tác phẩm nêu tên hoặc bút danh của tác giả khi sử dụng tác phẩm; yêu cầu bên sử dụng tác phẩm trả nhuận bút hoặc thù lao theo đúng thời hạn và phương thức đã thỏa thuận. Bên sử dụng tác phẩm có nghĩa vụ sử dụng tác phẩm đúng hình thức, phạm vi và thời hạn đã thỏa thuận; không chuyển giao tác phẩm cho cá nhân hoặc tổ chức khác sử dụng khi chưa được tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm cho phép; trả nhuận bút hoặc trả thù lao theo thời hạn, phương thức đã thỏa thuận; bồi thường thiệt hại cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm nếu vi phạm các nghĩa vụ; có quyền công bố, phổ biến tác phẩm trong thời hạn theo đúng hình thức, phạm vi và thời hạn đã thỏa thuận; đơn phương hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu tác giả, chủ sở hữu tác phẩm bồi thường thiệt hại nếu không được tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm chuyển giao tác phẩm đúng nghĩa vụ do pháp luật dân sự quy định.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, hợp đồng sử dụng tác phẩm được quy định tại Điều 48 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 do Quốc hội khóa 11 ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005.