Hệ thống pháp luật

hôn nhân thực tế

"hôn nhân thực tế" được hiểu như sau:

Hôn nhân được công nhận dựa trên cơ sở thực tế là các bên nam, nữ đã và đang chung sống như vợ chồng, có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn có thẩm quyền.Ngay từ Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 đã quy định nam, nữ muốn trở thành vợ chồng trướcpháp luật thì phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy vậy, trong thực tế vì nhiều nguyên nhân khác nhau nên không ít trường hợp nam, nữ không đăng ký kết hôn nhưng vẫn chung sống như vợ chồng, có con chung và tài sản chung. Trước thực tế đó, Thông tư số 112-NCPL ngày 19.8.1972 của Tòa án nhân dân tối cao đã đưa ra đường lối giải quyết là công nhận những trường hợp nam, nữ sống chung như vợ chồng, có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn là “hôn nhân thực tế”. Theo đó, hôn nhân thực tế có giá trị như hôn nhân có đăng ký kết hôn.Đến Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nhà nước không công nhận những trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng, có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn là vợ chồng, đồng nghĩa là pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam không còn công nhận hôn nhân thực tế đối với những trường hợp sống chung như vợ chồng từ ngày 01.01.2001 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực) mà không đăng ký kết hôn. Riêng đối với những trường hợp nam, nữ sống chung như vợ chồng trước ngày 03.01.1987 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) và có đủ các điều kiện kết hôn thì vẫn được công nhận là hôn nhân thực tế. Còn đối với những trường hợp nam, nữ sống chung như vợ chồng trong khoảng thời gian từ ngày 03.01.1987 đến ngày 01.01.2000 có thể được xem xét và công nhận là hôn nhân thực tế được kéo dài đến ngày 01.01.2003, nếu sau ngày 01.01.2003, mà nam, nữ sống chung như vợ chồng vẫn không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thi không được công nhận là vợ chồng.