hối phiếu
"hối phiếu" được hiểu như sau:
Chứng chỉ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người khác (người bị ký phát) thanh toán một số tiền xác định cho người thụ hưởng khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian xác định trong tương lai.Hối phiếu là chứng chỉ ghi nhận khoản tiền thanh toán phát sinh từ hoạt động thương mại, được lập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, có tính trừu tượng và tính bất khả kháng. Tính trừu tượng thể hiện ở chỗ, việc thanh toán hối phiếu không phụ thuộc vào nguồn gốc tạo ra khoản nợ phải thanh toán. Tính bất khả kháng thể hiện nghĩa vụ thanh toán không điều kiện của người có nghĩa vụ chi trả. Hối phiếu là chứng chỉ có giá nên có thể chuyển nhượng. Pháp lệnh thương phiếu do Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 24.12.1999 (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.7.2000) quy định thương phiếu gồm hai loại là hối phiếu và lệnh phiếu. Hối phiếu theo quy định của Pháp lệnh này tương tự loại hối phiếu đòi nợ, còn lệnh phiếu tương tự hối phiếu nhận nợ ở nhiều nước. Thông thường, quan hệ hối phiếu liên quan đến các chủ thể sau: người ký phát là người lập và ký phát hành hối phiếu; người bị ký phát là người có trách nhiệm phải thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu; người thụ hưởng hối phiếu là người có quyền được thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu; người liên quan là người có quyền lợi, nghĩa vụ trong việc ký phát, lưu thông, thanh toán hối phiếu.Theo pháp luật của một số nước mà ở đó hối phiếu được lưu hành rộng rãi và phổ biến, thì loại chứng từ lưu thông này nhìn chung phải đáp ứng được một số điều kiện chung như hối phiếu phải là Chứng từ viết tay với đầy đủ các dữ kiện cần thiết và chữ ký của người phát hành hối phiếu, khoản tiền cần phải trả theo lệnh của người phát hành hối phiếu được thể hiện rõ ràng, chính xác, hối phiếu phải được chi trả bằng tiền mặt.Chứng thư có giá ghi nhận khoản tiền được thanh toán không điều kiện khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian xác định trong tương lai cho người thụ hưởng.Chứng chỉ hối phiếu là hình thức nguyên thủy của hối phiếu. Khoảng thế kỷ XII, thương nhân ở Italia đã phát hành các chứng chỉ nhận nợ làm công cụ thanh toán trong quan hệ thương mại gọi là chứng chỉ hối phiếu. Trong tờ chứng thư, người phát hành cam kết với người thụ hưởng về việc thanh toán giá trị tương ứng (có khấu trừ phần phí dịch vụ) tại nơi khác bằng đồng tiền được sử dụng tại nơi đó. Đến thế kỷ XIV, ngoài loại nhận nợ, xuất hiện hình thức hối phiếu đòi nợ. Từ thế kỷ XVI, khi hối phiếu được chuyển nhượng thì trở thành công cụ thanh toán ngày càng rộng rãi trong quan hệ thương mại nội địa ở từng quốc gia và cả thương mại quốc tế. Tuy vậy, do pháp luật của các quốc gia có những khác biệt nên phát sinh các tranh chấp. Các Hội nghị Haagen (Đức) vào năm 1910 và năm 1912 đặt nền móng cho các thỏa thuận quốc tế về hối phiếu. Song do chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nên mãi đến năm 1930, Hội nghị quốc tế về hối phiếu tại Geneva (Thụy Sĩ) mới thông qua 3 bản Hiệp Ước liên quan đến hối phiếu. Tuy nhiên, do các nước thuộc hệ pháp luật Anh - Mỹ không tham gia nên mục tiêu của Hiệp ước này không đạt được. Để quốc tế hóa việc sử dụng hối phiếu, ngày 09.12.1988; Đại hội đồng Liên hợp quốc tại - khóa họp lần thứ 43 đã thông qua Hiệp ước thống nhất về hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ quốc tế. Hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ có những dấu hiệu cơ bản sau: thứ nhất, hối phiếu là chứng chỉ có giá và có giá trị lưu thông; thứ hai, khoản tiền thanh toán được xác định cụ thể (thông qua xác định mệnh giá và lãi suất chiết khấu).Ở Việt Nam, trong quyền hạn thanh toán với nhân dân, hối phiếu chưa được sử dụng phổ biến. Theo quy định của Luật thương mại năm 1997, năm 2005 và Pháp lệnh thương phiếu năm 1999, thương phiếu gồm hối phiếu và lệnh phiếu. Theo quy định của Pháp lệnh thương phiếu thì hối phiếu tương tự hối phiếu đòi nợ, còn lệnh phiếu tương tự hối phiếu nhận nợ ở các nước.