Hệ thống pháp luật

hiệu lực theo thời gian của văn bản quy phạm pháp luật

"hiệu lực theo thời gian của văn bản quy phạm pháp luật" được hiểu như sau:

Tính bắt buộc thi hành của văn bản quy phạm pháp luật đối với các chủ thể pháp luật từ thời điểm văn bản đó phát sinh hiệu lực tới thời điểm chấm dứt hiệu lực.Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định như sau: 1) Luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội có hiệu lực kể từ ngày Chủ tịch nước ký lệnh công bố, trừ trường hợp trong văn bản đó có xác định cụ thể ngày bắt đầu có hiệu lực; 2) Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước có hiệu lực kể từ ngày đăng Công báo, trừ trường hợp văn bản đó có quy định cụ thể ngày bắt đầu có hiệu lực; 3) Văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các văn bản quy phạm pháp luật liên tịch có hiệu lực sau 15 ngày kể từ đăng Công báo hoặc có hiệu lực muộn hơn nếu được quy định tại văn bản đó. Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định các biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp thì văn bản có thể quy định ngày có hiệu lực sớm hơn.Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây: hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản; được thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó; bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành của văn bản hết hiệu lực, đồng thời, cũng hết hiệu lực cùng với văn bản đó, trừ trường hợp được giữ lại toàn bộ hoặc một phần vì còn phù hợp với các quy định của văn bản quy phạm pháp luật mới.