Hệ thống pháp luật

hiệu lực pháp luật

"hiệu lực pháp luật" được hiểu như sau:

Giá trị pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật để thi hành hoặc áp dụng văn bản đó, thể hiện thứ bậc cao thấp của văn bản trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, thể hiện phạm vi tác động hoặc phạm vi điều chỉnh của văn bản về thời gian, không gian và về đối tượng áp dụng.Trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nước ta, Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Sau Hiến pháp là các bộ luật và luật do Quốc hội thông qua. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội có giá trị sau Hiến pháp và luật. Tiếp đến là các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành (nghị định, nghị quyết)...Về nguyên tắc, văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, đảm bảo tính thống nhất, thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật. Trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề, thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.Hiệu lực pháp luật được thể hiện trên các phương diện sau: 1) Hiệu lực về không gian: chỉ giới hạn phạm vi lãnh thổ mà một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực; 2) Hiệu lực về thời gian: chỉ khoảng thời gian mà một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý bắt buộc thi hành.Thời điểm để tính hiệu lực về thời gian có thể được ghi ngay trong văn bản đó hoặc theo quy định chung của pháp luật về thẩm quyền và trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của nước ta thì luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội có hiệu lực kể từ ngày Chủ tịch nước ký lệnh công bố, văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước có hiệu lực kể từ ngày đăng công báo, trừ trường hợp các văn bản đó quy định ngày có hiệu lực khác. Văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các văn bản quy phạm pháp luật liên tịch có hiệu lực sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo hoặc có hiệu lực muộn hơn, nếu được quy định tại văn bản đó. Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ mà nội dung quy định có biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp, thì có thể quy định ngày có hiệu lực sớm hơn.Văn bản quy phạm pháp luật cũng có thể có hiệu lực trở về trước (hiệu lực hồi tố) nhưng chỉ trong những trường hợp cần thiết (Xt. Hiệu lực hồi tố).Văn bản quy phạm pháp luật bị ngưng hiệu lực từ thời điểm cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ thi hành cho đến thời điểm có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nếu không bị hủy bỏ thì văn bản tiếp tục có hiệu lực còn nếu bị hủy bỏ thì văn bản hết hiệu lực.Văn bản quy phạm pháp luật bị chấm dứt hiệu lực từ thời điểm hết thời gian có hiệu lực đã được quy định trong văn bản đó hoặc từ thời điểm chính cơ quan đã ban hành văn bản ra văn bản mới thay thế văn bản đó hoặc văn bản quy phạm pháp luật bị chấm dứt hiệu lực từ thời điểm bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.