Hệ thống pháp luật

hiệp định pari về việt nam

"hiệp định pari về việt nam" được hiểu như sau:

Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, gọi tắt là Hiệp định Pari về Việt Nam ký kết giữa 4 bên là Việt Nam dân chủ cộng hòa, Mỹ, Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam và Việt Nam cộng hòa (ngụy quyền Sài Gòn) tại Hội nghị 4 bên tại Pari ngày 24.01.1973.Lúc đầu, Hội nghị 2 bên mở phiên đầu tiên vào ngày 13.5.1968. Phái đoàn Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa do ông Xuân Thủy dẫn đầu và phái đoàn Hoa kỳ do Hariman dẫn đầu. Sau một thời gian họp, 2 bên tuy chưa giải quyết được vấn đề cơ bản nhưng đây cũng là một diễn đàn quan trọng để Việt Nam vạch trần dã tâm xâm lược và thái độ ngoan cố, thiếu thiện chí của phía mỹ trong việc giải quyết vấn đề lập lại hòa bình ở Việt Nam. Trước yêu cầu chính đáng của Việt Nam và sức ép của dư luận, mỹ đồng ý cùng Việt Nam mở rộng thành phần họp 4 bên: Việt Nam dân chủ cộng hòa, Mỹ, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam cộng hòa.Bốn bên mở phiên họp đầu tiên ngày 18.01.969. Hội nghị kéo dài hơn 4 năm với 202 phiên họp công khai, 24 phiên họp kín. Trong quá trình Hội nghị 4 bên, mỹ vẫn ngoan cố, muốn thương lượng trên thế mạnh, nhưng với thắng lợi của quân và dân ta, nhất là trong cuộc Tổng tiến công Xuân - Hè năm 1972 ở miền Nam và đòn phản công đập tan cuộc tập kích bằng không quân chiến lược B52 trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng và sức ép của dư luận tiến bộ mỹ và thế giới, ngày 17.01.1973, phía mỹ bắt buộc phải ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam năm 1973.Hiệp định có 9 chương, 23 điều và 4 nghị định thư gồm các nội dung chủ yếu: mỹ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Các bên thực hiện ngừng bắn, chấm dứt chiến sự không thời hạn; mỹ chấm dứt mọi hoạt động quân sự chống Việt Nam dân chủ cộng hòa, tháo gỡ, phá hủy tất cả mìn ở vùng biển, cảng và sông ngòi ở miền Bắc Việt Nam; không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam. mỹ và các nước ngoài rút hết quân đội, cố vấn quân sự, nhân viên quân sự, vũ khí đạn dược và dụng cụ chiến tranh ra khỏi miền Nam Việt Nam và hủy bỏ những căn cứ quân sự của mỹ và của các nước ngoài khác ở miền Nam Việt Nam; các bên tiến hành trao trả nhân viên quân sự, thường dân nước ngoài, nhân viên dân sự Việt Nam bị bắt, thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam thông qua tổng tuyển cử tự do, dân chủ, có sự giám sát quốc tế, quyết định tương lai chính trị của mình; thành lập Ban liên hiệp quân sự 4 bên và 2 bên Việt Nam để thi hành các điều kiện về quân sự của Hiệp định, thành lập Ủy ban kiểm sát và giám sát quốc tế để giám sát việc thi hành Hiệp định; thực hiện thống nhất Việt Nam thông qua hiệp thương giữa hai miền; Bắc và Nam Việt Nam không tham gia liên minh hoặc khối quân sự nào; mỹ cam kết đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương.Điều đáng nói, Hiệp định còn được Hội nghị quốc tế về Việt Nam họp tại Pari từ ngày 27.02 đến 02.3.1973 gồm đại diện của Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, 4 bên tham gia ký Hiệp định Pari (Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, Mĩ, Việt Nam cộng hòa) và 4 nước trong Ủy ban kiểm soát và giám sát (Ba Lan, Canada, Hungari, Inđônêxia) ghi nhận và ủng hộ, ký Định ước gồm 9 điều khẳng định Hiệp định Pari về Việt Nam phải được thực hiện, công nhận và cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam và kêu gọi tất cả các nước trên thế giới cũng làm như vậy.Tuy nhiên, mỹ chỉ thực hiện những điều khoản mà họ thấy có lợi cho họ và còn đồng lõa với chính quyền Sài Gòn vi phạm có hệ thống những điều khoản chủ yếu của Hiệp định.