Hệ thống pháp luật

hiến pháp việt nam năm 1992

"hiến pháp việt nam năm 1992" được hiểu như sau:

Đạo luật gốc, cơ bản được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kỳ họp thứ 11, Khóa VIII nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 15.4.1992, Chủ tịch nước công bố ngày 18.4.1992.Hiến pháp năm 1992 là bản Hiến pháp thứ tư của Nhà nước ta và đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25.12.2001 của Quốc hội khóa X.Hiến pháp năm 1992 ra đời đã kịp thời thể chế hóa đường lối đổi mới toàn diện của Đảng trongnhững năm đầu đổi mới, tạo cơ sở pháp lý hiến định quan trọng và hết sức cần thiết cho bước chuyển biến mang tính cách mạng của xã hội Việt Nam ở những năm cuối cùng của thế kỷ XX, từ cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, hành chính, bao cấp, sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện cải cách bộ máy nhà nước, dân chủ hóa một bước cơ bản mọi mặt đời sống xã hội, đã trực tiếp góp phần đưa xã hội Việt Nam ra khởi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài và ngày nay đang chuyển mạnh sang thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Quốc hội Khóa VIII (1987 - 1992), sau hai lần có quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1980, tại kỳ họp thứ 5, ngày 30.6.1988 cũng đã ra Nghị quyết thành lập ủy ban sửa đổi Hiến pháp để tiến hành “sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới”.Hiến pháp năm 1992 có 12 chương, 147 điều. Có một sự trùng hợp thú vị: tuy Hiến pháp năm 1980 so với Hiến pháp mới đã được sửa đổi bổ sung nhiều, nhưng cả hai Hiến pháp đều gồm "Lời nói đầu”, 12 chương, 147 điều."Lời nói đầu” so với Hiến pháp năm 1980 đã được rút còn lại khoảng một phần ba, súc tích hơn, chỉ giữ lại những cột mốc lịch sử lớn, đề cập đến công cuộc đổi mới với những thành tựu to lớn bước đầu là nguyên nhân đưa đến yêu cầu sửa đổi Hiến pháp năm 1980 đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, quyết tâm của nhân dân Việt Nam nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp mới.Chương I - Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có 14 điều, từ Điều 1 đến Điều 14 và cả 14 điều đểu có sửa đổi, bổ sung như chuyển cụm từ “và các hải đảo” ở cuối đoạn 1 đặt ngay sau đất liền thành: bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời. Điều 2, xét về ý thuộc nội dung có sự điều chỉnh cơ bản: ở Hiến pháp năm 1980 khẳng định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước chuyên chính vô sản thì nay xác định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều 4 vẫn tiếp tục xác định vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng có những bổ sung quan trọng: nếu ở Hiến pháp năm 1980 nói Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo thì ở đây đã được rút gọn: Đảng là lực lượng lãnh đạo và ý: “là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam” cũng được rút gọn, không còn, đồng thời có sự bổ sung, từ “Đảng.... theo chủ nghĩa Mác - Lênin” thì nay là: “Đảng... theo chủ nghĩa nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” và nếu ở Hiến pháp năm 1980: “Các tổ chức của Đảng” thì nay là: "Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.Chương II - Chế độ kinh tế, nếu ở Hiến pháp năm 1980 có 22 điều, thì Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản, thu gọn còn 15 điếu. Đổi mới tư duy và chính sách kinh tế là khâu trước hết, đi đầu trong đường lối, chính sách đổi mới toàn diện đời sống đất nước và vì vậy ở Chương này cũng thể hiện rõ nhất tính đổi mới trong các quy định, điều luật của chương từ cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường, từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở.Vấn đề lớn thu hút sự quan tâm nhiều của xã hội là vấn đề quyền sử dụng đất. Đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân, trước hết là nông dân mở rộng các quyền sử dụng đất, Quốc hội đã có quy định bổ sung người sử dụng đất là tổ chức, cá nhân... “được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật".Chương III - Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, có 19 điều, từ Điều 30 đến Điều 48, có điều chỉnh, mở rộng từ 13 điều ở Hiến pháp năm 1980 thành 19 điều theo tinh thần đổi mới, chia sẻ phần trách nhiệm của Nhà nước với xã hội, ở một số điều đã sử dụng cách quy định: “Nhà nước và xã hội” như “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam" (Điều 30); “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa dân tộc" (Điều 34);... Mặt khác, Nhà nước đã xác định được những lĩnh vực phải ưu tiên đặt lên vị trí “hàng đầu” hoặc then chốt: “Giáo dục và đào tạo là mặt trận hàng đầu” (Điều 35); “Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội”... (Điều 37).Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có 5 điều từ Điều 44 đến Điều 48, có sửa đổi và bổ sung ở một số điều về “bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội..." (Điều 47) và về nhiệm vụ “xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ" (Điều 47); bổ sung ý “kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng”.Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, có 34 điều, từ Điều 49 đến Điều 82, là chương dài nhất của Hiến pháp, so với Hiến pháp trước chỉ giữ nguyên 4 điều, sửa đổi đến 26 điều và có thêm 4 điều mới với nội dung chủ yếu là quy định cho rõ, đầy đủ hơn các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chú ý đến tính khả thi, khả năng thực hiện.Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, các quy định về quyền công dân có những thay đổi lớn: "công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” (Điều 57); “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác” (Điều 58).Trong lĩnh vực chính trị - nhà nước, các quyền về tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận những vấn đề chung của cả nước và địa phương vẫn được giữ vững, duy trì. Về các quyền tự do dân chủ, Hiến pháp mới không những ghi lại các quy định của các Hiến pháp trước mà còn có sự phát triển đáng kể, đặt vấn đề quyền công dân nhìn từ phương diện quyền con người: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50), “quyền được thông tin" (Điều 69); quyền tự do tôn giáo được bổ sung. Quyền tự do đi lại, cư trú cũng có bước phát triển mới; “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật” (Điều 68). Nói đúng hơn, đây là sự trở về với quy định của Hiến pháp đầu tiên. Một trong năm quyền tự do cá nhân được Điều 10 Hiến pháp 1946 quy định là công dân Việt Nam có quyền.... “tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.Về quyền bất khả xâm phạm về thân thể, có bổ sung cần thiết: “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh” (Điều 72).Các chương từ Chương VI đến Chương X, có 58 điều, được tập trung quy định về tổ chức bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, về các cơ quan cấp trung ương, Hiến pháp năm 1992 lại thực hiện một sự điều chỉnh lớn trực tiếp có quan hệ đến tất cả các cơ quan là thiết chế Hội đồng nhà nước sau 12 năm vận hành với hai nhiệm kỳ Quốc hội (Quốc hội Khóa VII nhiệm kỳ 5 năm và kéo dài 1 năm (1981 - 1987), Quốc hội Khóa VIII nhiệm kỳ 5 năm kéo dài 3 tháng (1987 - 1992) đã tỏ ra không hoàn toàn thích hợp và đã được thay thế, phục hồi lại các thiết chế Ủy ban thưởng vụ Quốc hội và Chủ tịch nước của Hiến pháp năm 1959 với một số điều chỉnh theo Hiến pháp năm 1946.Về Quốc hội, với 18 điều (Điều 83 đến Điều 100), tuy về cơ bản, giữ lại các quy định của Hiến pháp năm 1980, nhưng cũng có những thay đổi với sự xuất hiện trở lại ủy ban thường vụ Quốc hội cũng như chức danh Chủ tịch nước và sự điều chỉnh trong tính chất của cơ quan hành pháp cao nhất và cả những bổ sung, cụ thể hóa, điều chỉnh trong nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hồi, của ủy ban thường vụ Quốc hội.Đối với ủy ban thường vụ Quốc hội, đến Hiến pháp năm 1992, về quyền hạn, nhiệm vụ so với Hiến pháp năm 1959, có sự điều chỉnh làm rõ nét hơn tính chất thường trực của ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian Quốc hội không họp thì thực hiện một số quyền hạn, nhiệm vụ của Quốc hội và “báo cáo Quốc hội hoặc trình Quốc hội phê chuẩn tại kì họp gần nhất của Quốc hội” như quy định tại các điểm 8, 9 Điều 91.Chương VII - Chủ tịch nước, với 8 điều, từ Điều 101 đến Điều 108 là sự tái lập thiết chế nguyên thủ quốc gia - Chủ tịch nước mà quyền hạn không như quy định tại Điều 49 Hiến pháp năm 1946, nhưng cũng không như quy định tại Điều 63 Hiến pháp năm 1959 mà đã mang tính thực quyền, nhất là các quyền mà theo Hiến pháp năm 1959 thì giao cho ủy ban thường vụ thực hiện (Điều 53, các điểm 11, 12, 14, 15) “9... Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm cấp đại sứ hàm, cấp nhà nước trong các lĩnh vực khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; 10. Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam, tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; 11. Tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định; 12. Quyết định đặc xá...”. Chủ tịch nước lại được giao “đề nghị Ủy ban thường vụ quốc hội (Điều 103 Hiến pháp 1992) xem xét lại pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về các quy định tại điểm 8, điểm 9, Điều 91 trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày pháp lệnh hoặc nghị quyết được thông qua..." (Điều 103, điểm 7).về Chính phủ (9 điều, từ Điều 109 đến Điều 117) từ Hiến pháp năm 1980 đến Hiến pháp năm 1992 có sự điều chỉnh quan trọng. Trên nền của sự thừa nhận Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội... (Điều 104), tiếp đến là sự điều chỉnh lớn một trong những tính chất đặc trưng của cơ quan hành pháp cao nhất: là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất hay là của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam... Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu và bổ nhiệm các Bộ trưởng và đề nghị Quốc hội phê chuẩn. Bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng và trước Quốc hội (Điều 117). Thủ tướng có những nhiệm vụ, quyền hạn riêng và được Chương này quy định: ra quyết định, chỉ thị trong chỉ huy, điều hành (Điều 115).Về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân - Chương IX, có 8 điều từ Điều 118 đến Điều 125, về cơ bản chưa có những điều chỉnh lớn. Về bộ máy nhà nước, như Nghị quyết hội nghị trung ương 2 (Khóa VII) tháng 12.1991 xác định, chỉ mới cải cách một bước bộ máy nhà nước và chủ yếu ở cấp trung ương, đối với tổ chức bộ máy chính quyền địa phương, do Hội đồng nhân dân là một thiết chế phải tiếp tục nghiên cứu để có thể thực hiện cải cách một cách cơ bản, toàn diện, nhất là trong tình hình Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân lúc bấy giờ vừa được bầu năm 1989 và ở cấp nào có thành lập Hội đồng nhân dân đang là vấn đề còn ý kiến khác nhau lớn, nên khác với ba Hiến pháp trước là tại mỗi Hiến pháp đều khẳng định cấp chính quyền được lập Hội đồng nhân dân thì Điều 118 Hiến pháp năm 1992 dành việc quy định đó lại cho Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân: “Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở các đơn vị hành chính do luật định”. Nội dung của chương này, vì vậy về cơ bản kế thừa, giữ lại những điều của Hiến pháp năm 1980.Về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Chương X, có 15 điều, từ Điều 126 đến Điều 140, về cơ bản vẫn giữ lại các điều quy định của Hiến pháp năm 1980 với một số điều chỉnh, sửa đổi quan trọng: thay cho chế độ bầu cử Thẩm phán của Hiến pháp năm 1980 (Điều 129) là “chế độ bổ nhiệm, bãi nhiệm... Thẩm phán” (Điếu 128). Đối với Viện kiểm sát (từ Điều 138 đến Điều 141) cơ bản giữ như quy định của Hiến pháp năm 1980.Các chương XI, Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô; Chương XII, Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp vẫn giữ lại các điều của Hiến pháp năm 1980.