hiến pháp việt nam năm 1980
"hiến pháp việt nam năm 1980" được hiểu như sau:
Đạo luật gốc, cơ bản được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa VI, kì họp thứ 7 thông qua ngày 18.12.1980 và Chủ tịch Hội đồng nhà nước công bố ngày 19.12.1980, gồm 12 chương, 147 điều, được sửa đổi, bổ sung hai lần: Lần thứ nhất sửa đổi Lời nói đầu tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội Khóa VIII; lần thứ hai, sửa đổi các điều 57,115 (điểm 9), 116,118,122, 123 và 125 tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội Khóa VIII.Hiến pháp năm 1980 là bản Hiến pháp thứ ba của nước Việt Nam và là bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất xã hội chủ nghĩa.Sau ngày 30.4.1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng và do Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quản lý. Trên đất nước Việt Nam tồn tại hai chính quyền, xét theo bản chất, đều là chính quyền nhân dân và đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Vấn đề thống nhất nước Việt Nam trước hết về mặt nhà nước đã được đặt ra. Từ ngày 15 đến 21.11.1975, Hội nghị hiệp thương chính trị bản về vấn đề thống nhất Việt Nam về mặt nhà nước đã được tiến hành giữa hai Đoàn cấp cao của miền Bắc và miền Nam cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất đã được tiến hành ngày 25.4.1976 kỳ họp đầu tiên của Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất đã khai mạc tại thủ đô Hà Nội. Ngày 24.6.1976, Quốc hội đã có những quyết định quan trọng, trong đó có quyết định thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và sau hơn bốn năm làm việc khẩn trương, cuối năm 1980, Hiến pháp mới, thứ ba đã được Quốc hội thông qua.Kế thừa, phát triển, nâng cao những quy định của 2 bản Hiến pháp trước, vận dụng vào điều kiện cụ thể của giai đoạn phát triển mới, Hiến pháp năm 1980 là một bước phát triển mới của nền lập hiến Việt Nam. Đi theo mô hình "Lời nói đầu" phổ biến lúc bấy giờ của Hiến pháp xã hội chủ nghĩa, "Lời nói đầu" Hiến pháp năm 1980 là một bản tổng kết lớn thành quả đấu tranh của dân tộc Việt Nam trong trường kỳ lịch sử dựng nước, giữ nước, nhất là trong thời hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã giành được những thắng lợi có tính lịch sử. "Lời nói đầu", đồng thời, lần đầu tiên đã xác định vai trò, sứ mệnh của hoạt động lập hiến trong mối quan hệ với đường lối chính trị của Đảng lãnh đạo là thể chế hóa đường lối của Đảng: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần có một bản Hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước.Chương I - Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chế độ chính trị vốn là chương thường bao gồm những thể chế cơ bản của Nhà nước và xã hội. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tính chất, đặc trưng cơ bản là "một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và hải đảo” và tiếp theo là sự ghi nhận các chế định cơ bản của chính quyền: tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Đồng thời, ở Chương I, lần đầu tiên xác nhận bản chất chuyên chính vô sản của chính quyền ở ngay tại Điều 2, thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng-duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội.Tiếp đó, Hiến pháp đã lần lượt xác định vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận (Điều 9) và dành riêng một điều về Tổng công đoàn Việt Nam (Điều 10); của tập thể nhân dân lao động ở cơ quan, xí nghiệp (Điều 12)...Chương II - Chế độ kinh tế có 22 điều từ Điều 15 đến Điều 36 là một trong những chương lớn của Hiến pháp, chỉ đứng sau Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nội dung chủ yếu của cả chương là thể chế hóa một cách tổng quát đường lối xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung của xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.Chương III - Văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật: có 13 điều từ Điều 37 đến Điều 49. Lần đầu tiên, trong đạo luật cơ bản của Nhà nước các vấn đề thuộc đường lối phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật của đất nước đã được tập trung lại, thể hiện thành những thể chế hiến định trong một chương riêng, phản ánh một cách nhìn mới về văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật trong đời sống của đất nước trong quá trình phát triển đi lên của xã hội.Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: gồm 3 điều, từ Điều 50 đến điều 52. Cũng là lần đầu tiên, bảo vệ Tổ quốc có vị trí của một chương riêng biệt trong Hiến pháp - luật cơ bản, phản ánh một thực tế đấu tranh đã trở thành quy luật trong trường kỳ lịch sử, công cuộc dựng nước bao giờ cũng gắn với sự nghiệp giữ nước, bảo vệ Tổ quốc.Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: gồm 29 điều, từ Điều 53 đến Điều 81, là chương lớn nhất của Hiến pháp thể hiện quan điểm như sợi chỉ đỏ xuyên suốt các Hiến pháp Việt Nam và đến Hiến pháp năm 1980 có bước phát triển mới: địa vị làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội của nhân dân.Nội dung của chương này quy định tương đối bao quát, đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, các quyền tự do dân chủ (các điều 67, 68, 71). Một điều mới trong cách thể hiện là lao động và học tập được quy định là quyền đồng thời là nghĩa vụ của công dân. Các nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng được quy định đầy đủ.Một đặc điểm đáng kể của chương này là cùng với các quy định đầy đủ, toàn diện về các quyền và nghĩa vụ của công dân, lại có những quy định tuy không trực tiếp đề cập quyền và nghĩa vụ công dân nhưng lại có mối quan hệ khăng khít trong cuộc sống cộng đồng như vị trí, vai trò của gia đình là tế bào của xã hội (Điều 64) hoặc trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc chú trọng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng (Điều 65),"tạo điều kiện cho thanh niên học tập, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, năng khiếu và thể lực" (Điều 66).Năm chương từ Chương VI đến Chương X gồm 60 điều từ Điều 82 đến Điều 141, với các quy định về tổ chức bộ máy nhà nước trung ương và địa phương thể hiện mối quan hệ khăng khít với nhau theo tinh thần vừa có sự phân công, vừa có phối hợp trên cơ sở tiếp thu, kế thừa các quy định đã thành nguyên tắc, nguyên lý của hai Hiến pháp trước, đồng thời, có sự điều chỉnh lớn, đưa mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước Việt Nam về cơ bản theo mô hình tổ chức nhà nước xã hội chủ nghĩa phổ biến ở những năm 70, 80, thế kỷ XX.Về Quốc hội, Chương VI có 16 điều từ Điều 83 đến Điều 97, khẳng định các quy định truyền thống có tính nguyên tắc về vị trí của Quốc hội, đồng thời, khẳng định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh tế và văn hóa, quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước... và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước (Điều 82).Chương VII - Hội đồng nhà nước: có 6 điều từ Điều 98 đến Điều 103, thiết kế một thể chế rất mới mẻ ở Việt Nam, vừa làm chức năng của cơ quan thường trực của Quốc hội, vừa làm Chức năng của Chủ tịch nước - nguyên thủ quốc gia. Điều 98 ghi:Hội đồng nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam... Hội đồng nhà nước, thông qua Chủ tịch Hội đồng thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.Chương VIII - Hội đồng Bộ trưởng có 9 điều từ Điều 104 đến Điều 112, chủ yếu kế thừa, tiếp thu các quy định của thiết chế Hội đồng Chính phủ của Hiến pháp năm 1959 với những điều chỉnh, bổ sung cần thiết cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Hội đồng Bộ trưởng, theo Điều 104, là Chính phủ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, về chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của Hội đồng Bộ trưởng về cơ bản như ở Hiến pháp năm 1959 với sự cụ thể hóa, bổ sung một số chức năng mà Nhà nước ta, do bản chất nhân dân của nó, ở giai đoạn nào cũng được thể hiện, nhưng ở các Hiến pháp trước chưa được chính thức ghi nhận thì nay đã được bổ sung, trở thành những nhiệm vụ, quyền hạn mới của Hội đồng Bộ trưởng.Chương IX - Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân: có 14 điều, từ Điều 113 đến Điều 126, chủ yếu kế thừa, tiếp tục các quy định của thiết kế mô hình tổ chức chính quyền địa phương của các Hiến pháp trước: tổ chức chính quyền ba cấp hoàn chỉnh: cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã đều có Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (cơ quan hành pháp địa phương đã được gọi là Ủy ban nhân dân thay cho tên gọi ủy ban hành chính ở hai Hiến pháp trước.Tháng 6.1989, kỳ họp thứ 9 Quốc hội Khóa VIII đã có nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1980 trực tiếp liên quan đến các quy định của Chương IX, theo đó tất cả 6 điều được sửa đổi, bổ sung đều quan hệ đến 1 thiết chế là thường trực Hội đồng nhân dân được thành lập ở Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Hội đồng nhân dân cấp huyện, gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký Hội đồng nhân dân làm nhiệm vụ triệu tập hội nghị Hội đồng nhân dân cùng cấp và điều hành, phối hợp hoạt động của các ban do Hội đồng nhân dân lập ra, nhiệm vụ mà trước đó do Chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện. Nghị quyết sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1980 cũng điều chỉnh nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân, nếu trước đây cấp tỉnh là 4 năm, cấp huyện, cấp xã là 2 năm (Điều 116), thi nay theo nghị quyết mới tất cả đều 5 năm.Chương X - Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân có 15 điều từ Điều 127 đến Điều 141 về cơ bản kế thừa, tiếp thu những quy định của Hiến pháp năm 1959 về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Lần đầu tiên, ồ tầm hiến định, chương này có quy định: ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân, theo quy định của pháp luật.Chương XI - Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô có 4 điều, từ Điều 142 đến Điều 145, so với Hiến pháp năm 1959, có bổ sung quan trọng về Quốc ca: Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Quốc hội quyết định, về Quốc kỳ (Điều 142); Quốc huy (Điều 143) có sự bổ sung, miêu tả cụ thể những chi tiết của quốc kỳ - hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh; đối với Quốc huy cũng có mô tả chi tiết cụ thể (Điều 143).Chương XII - Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp có 2 điều: Điều 146 và Điều 147. So với Hiến pháp 1959, có bổ sung một điều đặc biệt quan trọng về hiệu lực của Hiến pháp, cụ thể Điều 146 ghi: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Điều 147 về sửa đổi Hiến pháp giữ nguyên như Điều 112 Hiến pháp năm 1959: chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp và phải được hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành mới có giá trị.