Hệ thống pháp luật

hiến pháp việt nam năm 1959

"hiến pháp việt nam năm 1959" được hiểu như sau:

Đạo luật gốc, cơ bản được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Khóa I, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 31.12.1959 và Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh công bố ngày 01.01.1960, gồm 10 chương và 112 điều.Hiến pháp năm 1959 là bản Hiến pháp thứ hai của nước Việt Nam, thay thế Hiến pháp năm 1946, ra đời khi đất nước đang tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội Khóa I (cuối năm 1956 đầu năm 1957) đã có quyết định sửa đổi Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban.Kế thừa và phát triển các chế định thể hiện bản chất, chức năng, sức mạnh, các nhiệm vụ lịch sử của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua sự thử thách, kiểm nghiệm của thực tế đấu tranh của nhân dân, Hiến pháp năm 1959, một mặt ghi lại theo tinh thần và lời văn của nhiều chế định của Hiến pháp năm 1946, mặt khác, đã mở rộng phạm vi quy định, có thêm những chương mới chưa được quy định ở Hiến pháp năm 1946. Đó là Chương II,"Chế độ kinh tế và xã hội" là một chương lớn với 13 điều, hoặc chế định “Chủ tịch nước” được tách ra khỏi chế định Chính phủ và quy định thành một chương riêng, Chế định: "Quốc kỳ, Quốc huy và Thủ đô" ở Hiến pháp năm 1946 đặt thành một điều ở Chương I “Chính thể” đã được tách thành một chương, riêng “Quốc kỳ, Quốc huy, Thủ đô" với 3 điều đặt ở cuối Hiến pháp, tương tự như ở Hiến pháp nhiều nước trên thế giới.“Lời nói đầu” cũng như Điều 1 đều khẳng định:"Nước Việt Nam là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau (Lời nói đầu) hoặc "Nước Việt Nam là một khối Bắc Nam thống nhất không thể chia cắt” (Điều 1).Nội dung chính của “Lời nói đầu” có tính chất của một bản tổng kết lịch sử đấu tranh trong suốt gần 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ vì độc lập, tự do, nhất là từ khi có sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời đưa ra một tuyên ngôn, phương hướng cho cuộc đấu tranh trong thời kỳ tới: "Cách mạng Việt Nam chuyển sang một hình thể mới. Nhân dân ta cần ra sức củng cố miền Bắc đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục đấu tranh, hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước", và chỉ rõ "Hiến pháp mới là một Hiến pháp thực sự dân chủ. Hiến pháp mới sức sức mạnh động viên nhân dân cả nước phấn khởi tiến lên giành những thắng lợi mới".Chương I, “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa", xác định tính nhân dân của Nhà nước: Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa... là một nước dân chủ nhân dân; Điều 3 xác định: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc”, đồng thời, thiết kế một quy định mang tính thể chế chính quyền tự trị đối với các dân tộc thiểu số: "Những địa phương có dân tộc thiểu số sống tập trung thì có thể thành lập khu vực tự trị. Khu tự trị là khu vực không thể tách rời được của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa".Điều 4 ghi lại quy định của Điều 1 Hiến pháp năm 1946 với sự điều chỉnh “quyền bính” thành “quyền lực” và cải cách thể hiện: từ “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo" thành: "Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”. Nhân dân là khái niệm có nội dung giai cấp. Cũng vì vậy, cách thể hiện: "Toàn thể nhân dân không phân biệt...” có phạm vi rộng hơn khái niệm nhân dân. Đây cũng là một trong những khuynh hướng xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở Hiến pháp năm 1959. Điều 5 đề cập đến chế độ tuyển cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân; Điều 6 (mới) quy định trách nhiệm của tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân; Điều 7 quy định, những hành vi bị nghiêm cấm và bị Nhà nước trừng trị; Điều 8 về nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dân.Chương II - Chế độ kinh tế và xã hội quy định đường lối tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội; Điều 10 xác định: "Nhà nước lãnh đạo kinh tế theo một kế hoạch thống nhất”; Điều 11 nói đến các thành phần sở hữu trong thời kỳ quá độ và Điều 12 - vai trò lãnh đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế quốc dân; Điều 13 - về vị trí của kinh tế hợp tác xã và chính sách của Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ phát triển; Điều 14 - về chính sách của Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của nông dân và khuyến khích họ tổ chức các hợp tác xã... cũng như chính sách kinh tế đối với người làm nghề thủ công, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã (Điều 15), bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của nhà tư sản dân tộc...Chương III - Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân gồm 23 điều là chương lớn nhất của Hiến pháp, thể hiện một bước phát triển dài của chế định quyền công dân trong xã hội ta những năm 60, 70 trên cơ sở kế thừa các quy định có tính mở đầu của Hiến pháp năm 1946, chủ yếu theo hướng vừa mở rộng số lượng các quyền mà Hiến pháp năm 1946, trong điều kiện của những năm đầu chính quyền nhân dân non trẻ, chưa quy định như quyền làm việc (Điều 30), quyền nghỉ ngơi (Điều 31), quyền tự do nghiên cứu khoa học... Đáng ghi nhận là Hiến pháp quy định quyền khiếu nại và tố cáo của công dân về những hành vi phạm pháp của nhân viên trong cơ quan nhà nước và quyền được bồi thường về những thiệt hại vì hành vi phạm pháp gây ra (Điều 29). Đồng thời, Hiến pháp cụ thể hóa các quyền đã được Hiến pháp năm 1946 quy định nhưng đang dừng lại ở dạng tuyên ngôn, nguyên tắc như Điều 32 về quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động được bảo đảm bằng việc Nhà nước mở rộng dần các tổ chức bảo hiểm xã hội, cứu tế và y tế để người lao động được hưởng quyền đó, hoặc về quyền học tập: công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền học tập. Nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bách, phát triển dần các trường học và cơ quan văn hóa, kỹ thuật, nghiệp vụ, tại các cơ quan, xí nghiệp và các tổ chức khác ở thành thị và nông thôn, để bảo đảm cho công dân được hưởng quyền đó (Điều 33). Đối với các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng, ngang quyền của Hiến pháp năm 1946 cũng đều được ghi nhận lại và phát triển theo hướng bổ sung các biện pháp bảo đảm thực hiện, như Điều 25, 26, 27, 28: công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình, tự do tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, về nhà ở, về thư tín... và Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó.Các chương từ Chương IV đến Chương VIII quy định về tổ chức bộ máy nhà nước, chiếm một nửa số chương (5/10) và gần 60% số điều (66/112), so với các quy định của Hiến pháp năm 1946 có những điều chỉnh lớn theo hướng dân chủ hóa, đề cao, phát huy chế độ đại diện, phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để tích vực phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc nhà nước. Điếu 43, 44 xác định: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp, Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội có quyền ra pháp lệnh, giải thích pháp luật, quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân; sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị định, nghị quyết, chỉ thị của Hội đồng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, pháp lệnh; quyết định việc tổng động viên hoặc động viên cục bộ; quyết định việc giới nghiêm toàn quốc hoặc ở từng địa phương; quyết định việc phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước ký với nước ngoài. Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp nước nhà bị xâm lược cũng như quyết định việc bổ nhiệm hoặc bãi miễn Phó Thủ tướng và những thành viên khác của Hội đồng Chính phủ.Như vậy, ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền rộng lớn, một số quyền mà ở Hiến pháp năm 1946 giao cho Chủ tịch nước hoặc Chính phủ thì ở Hiến pháp này đã trao cho ủy ban thường vụ Quốc hội. Trong điều kiện Quốc hội không hoạt động thường xuyên, mỗi năm chỉ họp hai kỳ ngắn ngày, các thẩm quyền trên đây đưa lại cho Ủy ban thường vụ Quốc hội, phản ánh khuynh hướng có tính phổ biến lúc bấy giờ ở các nước xã hội chủ nghĩa, làm thay đổi tính chất của cơ quan thường vụ  của Quốc hội không còn là cơ quan thường trực đơn thuần của cơ quan lập pháp mà đồng thời thực hiện cả một phần chức năng của nguyên thủ quốc gia hoặc cơ quan hành pháp cao nhất.Chương V - Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra. không bắt buộc là từ các vị đại biểu Quốc hội như Hiến pháp năm 1946 mà công dân Việt Nam từ ba mươi lăm tuổi trở lên thì có quyền ứng cử Chủ tịch nước.Từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1959, các quy định của Chương "Chủ tịch nước” thể hiện bước chuyển hướng rõ nét nhất sang mô hình quá độ trong việc tổ chức thực thi quyền lực nhà nước cấp cao theo mô hình tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa phổ biến đương thời. Chủ tịch nước không thực hiện quyền lập quy ra sắc lệnh mà căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội mà công bố pháp luật, pháp lệnh; bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ, công bố lệnh đại xá và lệnh đặc xá, tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước; tuyên bố tình trạng chiến tranh; công bố lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm.Trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại cũng vậy, cùng với trách nhiệm tiếp nhận đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ngoài... Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội mà phê chuẩn hiệp Ước ký với nước ngoài, cử và triệu hồi đại diện toàn quyền ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ở nước ngoài (Điều 64).Đồng thời, Hiến pháp vẫn tiếp tục trao cho Chủ tịch nước những quyền năng có tính thực quyền: thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng (Điều 65); khi xét thấy cần thiết có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ (Điều 66); khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ tọa hội nghị chính trị đặc biệt.Chương VI, Hội đồng Chính phủ với tính cách là một cơ quan hợp nghị do Thủ tướng đứng đầu, chủ tọa Hội đồng Chính phủ và lãnh đạo công tác của Hội đồng Chính phủ (Điều 75). Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.Chương VII về Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính quy định "Các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính". Từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1959, đây là lần điều chỉnh lớn tổ chức chính quyền địa phương, mở ra thời kỳ tổ chức chính quyền địa phương 3 cấp hành chính, ở địa bàn đô thị cũng như nông thôn và được tiếp tục duy trì qua hai lần sửa đổi cơ bản Hiến pháp năm 1980 và năm 1992.Hội đồng nhân dân các cấp được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương (Điều 80) với các nhiệm kỳ khác nhau: cấp tỉnh - 3 năm; các cấp còn lại - 2 năm. Ủy ban hành chính các cấp là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính ba cấp đều có quyền lập quy. Hội đồng nhân dân bầu và bãi miễn Chánh án Tòa án nhân dân cấp mình (Điều 84).Chương VIII quy định về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Bằng các quy định của chương này, lần đầu tiên, ở tầm hiến định, các Tòa án nhân dân với tính cách là cơ quan xét xử và các Viện kiểm sát nhân dân với tính cách là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chính thức ra đời đầy đủ ở cả 3 cấp: trung ương, tỉnh, huyện. Đây chính là một bước phát triển lớn của các cơ quan tư pháp nước ta. Trước đó, do tình hình chiến tranh, các Tòa án chỉ được thành lập ở các cấp địa phương.Các Tòa án nhân dân thực hiện chế độ thẩm phán bầu (Điều 98) và việc xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia và ngang quyền với Thẩm phán khi xét xử (Điều 99).Các Viện kiểm sát nhân dân với tính cách là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật, để bảo đảm pháp chế thống nhất trong cả nước, được thành lập thành hệ thống thống nhất: Viện kiểm sát nhân dân các cấp chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 107).Chương X về sửa đổi Hiến pháp: chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp với hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Vấn đề đưa ra nhân dân phủ quyết như Hiến pháp năm 1946 quy định, không còn đặt ra.