Hệ thống pháp luật

hiến pháp tư sản

"hiến pháp tư sản" được hiểu như sau:

Hình thức văn bản pháp luật có tính chất của đạo luật cơ bản của nhà nước lần đầu tiên ra đời trong xã hội tư sản.Trong các xã hội tồn tại trước xã hội tư sản, ở phương Đông cũng như ở phương Tây đã từng có các văn bản pháp luật có tên gọi hoặc trong nội dung có những điều khoản chứa đựng thuật ngữ "hiến pháp", nhưng Hiến pháp với tính chất là đạo luật cơ bản thì phải đến xã hội tư sản mới xuất hiện.Hiến pháp ra đời gắn liền với cuộc đấu tranh của các dân tộc, trong đó, giai cấp tư sản thường là lực lượng lãnh đạo, chống lại các vương triều phong kiến chuyên chế. Giành được chính quyền, các nhà nước tư sản lần lượt ban hành Hiến pháp, sử dụng Hiến pháp như một vũ khí sắc bén thể chế hóa quyền thống trị xã hội của giai cấp mình nhằm bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, ở ngay những nước, nơi cuộc đấu tranh bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử, đặc thù mà vương quyền vẫn được duy trì thì Hiến pháp vẫn được ban hành - đó là điều mà giai cấp tư sản không bao giờ nhượng bộ để thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, chính vì vậy, Lênin đã viết: "mọi cuộc cách mạng tư sản... cuối cùng, không có gì hơn là quá trình xây dựng một chế độ lập hiến".Xét theo bản chất, Hiến pháp với tính cách là đạo luật cơ bản là hình thức văn bản pháp luật rất thích hợp đối với nhu cầu của giai cấp tư sản với tính cách là một giai cấp thống trị, nắm quyền lãnh đạo xã hội.Giành được chính quyền, giai cấp tư sản hiểu rõ không thể thực hiện quyền cai quản xã hội theo lối cũ mà phải biết lợi dụng ngay ngọn cờ tự do, bình đẳng, đáp ứng một phần đòi hỏi của quần chúng đông đảo và bằng cách đó, bảo vệ được các lợi ích của giai cấp mình. Một trong những nhu cầu lớn củathị trường tư bản chủ nghĩa là sự tồn tại của một thị trường lao động gồm những người lao động được tự do về thân phận. Mặt khác, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có biểu hiện trực tiếp là quan hệ hợp đồng, giao dịch phải được thực hiện một cách tự do, ngang quyền, bình đẳng trong thể hiện ý chí và đảm bảo lợi ích thể hiện thành tự do ý chí, bình đẳng trước pháp luật và phải được thể hiện thành quyền cơ bản của cá nhân được ghi nhận trong đạo luật cơ bản của Nhà nước - trong Hiến pháp. Giai cấp tư sản, xét về mặt cấu tạo, trong nội bộ lại luôn tồn tại các tập đoàn tư bản cạnh tranh nhau quyết liệt. Các cá nhân tư sản, xét một cách khách quan, không thể chấp nhận sự can thiệp dễ dãi của chính quyền vào công việc làm ăn, kinh doanh, vốn được xem là một lĩnh vực tư, nơi họ có quyền tự do định đoạt. Giai cấp tư sản tìm thấy ở Hiến pháp với nguyên tắc phân chia ba quyền, cơ chế giải quyết các vấn đề nội bộ phát sinh giữa các tập đoàn, cá nhân tư sản, khi công việc phải được đặt lên ở tầm quốc gia.Hơn nữa, ra đời trên cơ sở xóa bỏ ách thống trị phong kiến, nhà nước tư sản đứng trước một thực tế là đông đảo nhân dân lao động đã từng được cổ vũ bởi các lý tưởng về dân chủ, bình đẳng, tự do, về các quyền con người cơ bản; đồng thời, sự ra đời, phát triển của chế độ tư bản với tính cách là một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, khi xã hội đã đạt được những thành tựu to lớn về khoa học, kỹ thuật, về văn hóa, giáo dục, khi nền văn minh thế giới nói chung đã đạt đến trình độ cao hơn nhiều so với các chế độ cũ, khi những quan niệm, nhận thức về các quyền cơ bản, về dân chủ, tự do, về bình quyền, bình đẳng đã trở thành những giá trị phổ biến của văn minh nhân loại, thành của cải tinh thần chung của loài người. Là giai cấp nắm quyền thống trị xã hội, giai cấp tư sản phải thực hiện một sự lựa chọn có tính lịch sử, bắt buộc phải biết thích nghi, kịp thời rút ra những kinh nghiệm lớn từ thực tế đấu tranh giai cấp quyết liệt, nhiều khi đẫm máu ngay ở thời kỳ đầu, khi nhà nước tư sản mới ra đời. Từ đó, nhà nước tư sản đã phải, tuy từng bước và hoàn toàn không dễ dàng, đưa vào Hiến pháp, sự thừa nhận một số quyền tự do, dân chủ, bình đẳng của các công dân nói chung, bằng cách đó, nó có thể đảm đương tốt hơn sứ mệnh bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân tư sản. Nhà nước tư sản đã phải thích nghi và đã biết thích nghi, có những điều chỉnh lớn trong các chính sách xã hội, trong các quy định về mặt lập pháp. Đặc biệt, về mặt lập hiến, để tự tô vẽ mình như là người đại diện không phải của riêng giai cấp nào mà là đại diện chung của toàn xã hội, phất ngọn cờ quyền con người, quyền công dân cơ bản, cổ súy cho những quyền đó.Xét theo tính chất, qua lịch sử lập hiến hơn 200 năm của nhà nước tư sản, có thể chia sự phát triển đó thành 2 giai đoạn: giai đoạn đầu, từ Đại chiến thế giới lần thứ II trở về trước, Hiến pháp tư sản chủ yếu làm chức năng thể chế hóa quyền thống trị của giai cấp tư sản về mặt tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước, ghi nhận thắng lợi có tính lịch sử của giai cấp tư sản trước giai cấp phong kiến, quý tộc, bảo vệ một cách không che giấu quyền sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thừa nhận từng bước và ở mức độ hạn chế khác nhau các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng của công dân. Giai đoạn 2 bắt đầu từ Chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc. Đấy là giai đoạn, khi các Hiến pháp tư sản, tuy từng bước nhưng liên tục phục hưng, ghi nhận lại, mở rộng các quyền tự do, dân chủ mà trước đó đã từng bước được thừa nhận nhưng đã bị chà đạp, xóa bỏ trong các nhà nước phát xít kiểu Hitler, Mussolini... đồng thời, xuất hiện tình hình mới đòi hỏi tăng cường vai trò của Hiến pháp với tính cách đạo luật cơ bản của cả xã hội, khi các Hiến pháp lần lượt được bổ sung nội dung về giải phóng phụ nữ, về bảo đảm các quyền bình đẳng về chính trị - xã hội, về giáo dục thế hệ trẻ, về bảo vệ môi trường... Đây là lúc đã ra đời khái niệm xã hội hóa Hiến pháp, đưa vào Hiến pháp các nội dung về xây dựng nhà nước xã hội với các quy định có khi rất cụ thể, chi tiết.Nhìn một cách khái quát, có thể thấy mỗi Hiến pháp tư sản ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, mang theo những dấu ấn đặc thù của hoàn cảnh nhưng về cơ bản, đều có những dấu hiệu chung sau đây: 1) Đều thể chế hóa quyền thống trị của giai cấp tư sản dưới danh nghĩa của các chế định chủ quyền nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân một cách chung chung; 2) Đều là hình thức khẳng định chế độ chiếm hữu tư nhân và hệ thống kinh tế dựa trên chế độ chiếm hữu này thông qua việc khẳng định sở hữu tư nhân là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và quốc gia chủ trương sở hữu hóa toàn dân; 3) Thừa nhận các hình thái chính thể phổ biến là quân chủ lập hiến, cộng hòa đại nghị hoặc cộng hòa tổng thống; 4) Ghi nhận hai hình thức tổ chức nhà nước phổ biến là liên bang và đơn nhất; 5)Đều lấy "phân chia ba quyền" với những biến dạng khác nhau làm nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước; 6) Đều ghi nhận và thường có mở rộng theo xu thế chung của thời đại các quyền tự do, bình đẳng, bình quyền dưới dạng như những ưu đãi, tuy thực chất đó không phải là thứ ân huệ "ban không” mà là thành quả đấu tranh kiên trì của đông đảo các tầng lớp nhân dân, thừa nhận quyền con người với những mức độ khác nhau như những giá trị, thành tựu nhân văn, văn minh mà loài người đã đạt được.