Hệ thống pháp luật

hành vi thương mại

"hành vi thương mại" được hiểu như sau:

Hành vi của thương nhân trong đầu tư, sản xuất, trao đổi hàng hóa, cung ứng dịch vụ nhằm mục đích kiếm lợi nhuận, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với các bên có liên quan.Một hành vi được coi là hành vi thương mại khi thỏa mãn các điều kiện sau: 1) Hành vi do thương nhân thực hiện. Trong trường hợp công dân mua hàng của thương nhân thì hành vi mua của công dân đó là hành vi dân sự, còn hành vi bán hàng của thương nhân là hành vi thương mại; 2) Hành vi được thực hiện trong khuôn khổ các hoạt động thương mại của thương nhân. Ví dụ: hành vi mua hàng để bán lại của thương nhân là hành vi thương mại nhưng nếu mua hàng để thỏa mãn nhu cầu của cá nhân thì là hành vi dân sự.Luật thương mại Việt Nam năm 1997 quy định 14 loại hành vi thương mại là: mua bán hàng hóa; đại diện cho thương nhân; môi giới thương mại; ủy thác mua bán hàng hóa; đại lý mua bán hàng hóa; gia công trong thương mại; đấu giá hàng hóa; đấu thầu hàng hóa; dịch vụ giao nhận hàng hóa; dịch vụ giám định hàng hóa; khuyến mại; quảng cáo thương mại; trưng bày, giới thiệu hàng hóa; hội chợ, triển lãm thương mại. Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 quy định hành vi thương mại ở nghĩa rộng hơn, không chỉ bao gồm những hành vi mua bán hàng hóa và dịch vụ liên quan đến mua bán hàng hóa mà còn bao gồm nhiều hành vi khác như đầu tư, xây dựng, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, khai thác, vận chuyển...Tuy nhiên, ngày 14.6.2005, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa XI đã thông qua Luật thương mại mới - Luật thương mại năm 2005, có hiệu lực kể từ ngày 01.01.2006. Theo đó, thuật ngữ "hành vi thương mại” không còn được sử dụng, thay thế vào đó là việc sử dụng thuật ngữ “hoạt động thương mại" để chỉ các hoạt động của thương nhân (Xt. Hoạt động thương mại).