Hệ thống pháp luật

hành nghề mê tín, dị đoan

"hành nghề mê tín, dị đoan" được hiểu như sau:

(Hành vi) thực hiện các công việc thuộc về mê tín, dị đoan như một nghề.Hành nghề mê tín, dị đoan có thể có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội trong trường hợp nhất định và do vậy, có thể bị coi là tội phạm. Trong Luật hình sự Việt Nam, tội hành nghề mê tín, dị đoan được quy định lần đầu trong Bộ luật hình sự năm 1985. Bộ luật hình sự năm 1999 tiếp tục quy định tội này là tội phạm thuộc nhóm tội phạm xâm phạm trật tự công cộng nhưng mở rộng phạm vi những hành vi hành nghề mê tín, dị đoan bị coi là tội phạm. Theo Bộ luật hình sự năm 1985 thì hành vi hành nghề mê tín, dị đoan chỉ bị coi là tội phạm khi gây hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả đó có thể là hậu quả chết người, hậu quả thương tích hoặc là thiệt hại nghiêm trọng về tài sản. Ngoài trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, Bộ luật hình sự năm 1999 còn coi là tội phạm cả trường hợp chủ thể đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về hành vi này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.Hình phạt được quy định cho tội này có mức cao nhất là 10 năm tù.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, tội hành nghề mê tín, dị đoan được quy định tại Điều 320 Bộ luật hình sự 2015 do Quốc hội ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.