Hệ thống pháp luật

hạn mức tín dụng

"hạn mức tín dụng" được hiểu như sau:

Giới hạn mức cho vay tối đa trong hoạt động của tổ chức tín dụng; số dư nợ cho vay hay là số dư nợ tối đa vào một thời điểm nhất định, thường là ngày cuối quý, cuối năm được quy định trong kế hoạch tín dụng của ngân hàng.Hạn mức tín dụng áp dụng trong hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng theo hai trường hợp; Thứ nhất, hạn mức tín dụng do pháp luật quy định, tổ chức tín dụng chỉ được cho vay đối với một khách hàng trong giới hạn cho phép. Giới hạn này được Nhà nước đặt ra nhằm bảo đảm an toàn đối với hoạt động tín dụng, ở các nước, hạn mức tín dụng được quy định tùy thuộc vào độ an toàn trong kinh doanh của tổ chức tín dụng và yêu cầu quản lý của Nhà nước. Chẳng hạn, theo quy định của Luật ngân hàng thương mại Trung Quốc năm 1995, hạn mức tín dụng cho một khách hàng vay tối đa là 10% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Ở Việt Nam, theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 là 15%. Thứ hai, hạn mức tín dụng do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng phù hợp với giới hạn mà pháp luật quy định, được duy trì trong khoảng thời gian nhất định. Trên cơ sở hạn mức tín dụng đã thỏa thuận, tổ chức tín dụng có nghĩa vụ bảo đảm cấp tiền vay cho khách hàng theo từng kỳ hạn.Có hai loại hạn mức tín dụng: 1) Hạn mức tín dụng cuối kỳ là số dư nợ cho vay kế hoạch tối đa vào ngày cuối kỳ, mà số dư nợ cho vay thực tế cuối kỳ không được vượt quá; 2) Hạn mức tín dụng chung kỳ là hạn mức bổ sung cho hạn mức tín dụng cuối kỳ trong trường hợp do hoạt động kinh doanh của đơn vị vay vốn không đều đặn, có nhu cầu vay vốn vượt hạn mức tín dụng cuối kỳ. Hạn mức tín dụng này là chênh lệch số dư nợ cho vay cao nhất trong kì với hạn mức cho vay cuối kỳ, nên số vay nợ bổ sung này phải được hoàn trả ngay trong kỳ để bảo đảm số dư nợ thực tố cuối kì phù hợp với hạn mức tín dụng cuối kỳ quy định.