Hệ thống pháp luật

hạn chế tín dụng

"hạn chế tín dụng" được hiểu như sau:

Giới hạn loại khách hàng không được cho vay hoặc không được cho vay với điều kiện ưu đãi và giới hạn mức cho vay tối đa đối với các loại khách hàng.Hạn chế tín dụng là biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng mà tổ chức tín dụng có nghĩa vụ phải thực hiện. Phạm vi hạn chế được Nhà nước quy định tùy thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể như độ an toàn trong kinh doanh của hệ thống các tổ chức tín dụng, mức độ ổn định của nền tài chính quốc gia; khả năng kiểm soát hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng... Do đó, ở các nước, phạm vi hạn chế tín dụng có sự khác nhau và ở từng nước trong từng thời kỳ cũng khác nhau, ở Việt Nam, đối với hạn mức tín dụng, thường có hai loại: 1) Hạn mức tín dụng cuối kỳ là số dư nợ cho vay kế hoạch tối đa vào ngày cuối kỳ mà số dư nợ cho vay thực tế cuối kỳ không được vượt quá; 2) Hạn mức tín dụng trong kì là hạn mức bổ sung cho hạn mức cuối kỳ trong trường hợp do hoạt động kinh doanh của đơn vị vay vốn không đều đặn có nhu cầu vay vốn hạn mức tín dụng cuối kỳ, nên số bổ sung này phải được hoàn trả trong kỳ, để bảo đảm số dư thụt tế cuối kì phù hợp với hạn mức tín dụng cuối kỳ quy định. Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990 quy định: mức vốn tổ chức tín dụng cho vay đối với một khách hàng tối đa là 10% mức vốn tự có của tổ chức tín dụng đó, còn mức hạn chế này theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 là 15% nghĩa vụ do pháp luật quy định (không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định của pháp luật) hoặc đã làm những việc mà pháp luật cấm gây thiệt hại hoặc dẫn đến nguy cơ gây thiệt hại cho các lợi ích khác nhau.Các hành vi vi phạm pháp luật rất đa dạng về chủ thể, khách thể, về mặt khách quan và mặt chủ quan. Hành vi vi phạm pháp luật có thể là hành động hoặc không hành động xâm hại đến các lĩnh vực khác nhau của quan hệ xã hội, gây tác hại hoặc dẫn đến nguy cơ gây thiệt hại cho các lợi ích khác nhau (lợi ích của cá nhân, lợi ích của tập thể, lợi ích của Nhà nước hoặc lợi ích của toàn xã hội). Hành vi vi phạm pháp luật được thực hiện một cách cố ý hay vô ý, do những động cơ khác nhau và nhằm những mục đích rất khác nhau.Hành vi vi phạm pháp luật có rất nhiều loại, có hành vi vi phạm pháp luật hành chính; có hành vi vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế, lao động; có hành vi vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm).... Hành vi vi phạm pháp luật được mô tả trong các điều khoản của các văn bằng quy phạm pháp luật quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau: hình sự, hành chính, dân sự, kinh tế, lao động ... kèm theo các chế tài xử phạt tương ứng. Cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phải chịu những chế tài xử lý khác nhau tương ứng với loại hành vi vi phạm đã thực hiện