Hệ thống pháp luật

hàm ngoại giao

"hàm ngoại giao" được hiểu như sau:

Chức danh Nhà nước phong cho công chức ngành ngoại giao để phục vụ công tác đối ngoại ở trong nước và ở nước ngoài.Hàm ngoại giao được phong trên cơ sở trình độ nghiệp vụ và kết quả công tác của các công chức của Bộ Ngoại giao. Có các cấp độ hàm ngoại giao khác nhau. Theo Điều 5 Pháp lệnh về hàm, cấp ngoại giao được Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX thông qua ngày 31.5.1995, các công chức ngoại giao có thể được phong các hàm ngoại giao sau: 1) Cấp ngoại giao cao cấp gồm hàm đại sứ, hàm công sứ, hàm tham tán; 2) cấp ngoại giao trung cấp gồm hàm bí thư thứ nhất, hàm bí thư thứ hai; 3) Cấp ngoại giao sơ cấp gồm hàm bí thư thứ ba, hàm tùy viên.Khác với hàm ngoại giao, chức vụ ngoại giao được bổ nhiệm cho các công chức có cương vị ngoại giao công tác tại các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài hoặc ở các phái đoàn đại diện thường trực của quốc gia thành viên tại các tổ chức quốc tế liên chính phủ.Người có hàm ngoại giao có thể được cử đi công tác tại cơ quan đại diện của quốc gia mình ở nước ngoài, có thể được bổ nhiệm giữ một chức vụ ngoại giao hoặc chức vụ lãnh sự tương ứng với hàm ngoại giao của người đó. Trong một số trường hợp, do nhu cầu công tác, người mang hàm ngoại giao có thể được bổ nhiệm giữ một chức vụ ngoại giao hoặc chức vụ lãnh sự cao hơn hoặc thấp hơn so với hàm ngoại giao của người đó.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, hàm ngoại giao được quy định tại Pháp lệnh về hàm, cấp ngoại giao do UBTV Quốc hội ban hành ngày 31 tháng 05  năm 1995.