giới
"giới" được hiểu như sau:
Phạm trù chỉ vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam và nữ, giữa bé trai và bé gái.Nói đến mối quan hệ giới là nói đến cách thức phân định vai trò xã hội giữa nam và nữ, liên quan đến hàng loạt vấn đề thuộc về thể chế và xã hội chứ không phải là mối quan hệ cá biệt giữa một nam hay nữ nào. Giới không mang ý nghĩa lè “giới tính”. Giới tính (giống) thường để chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về phương diện sinh học, mang tính bẩm sinh, đồng nhất và không thể biến đổi. Trong khi đó, giới là khái niệm có nguồn gốc từ môn nhân học, nói đến vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ, được tiếp thu qua quá trình hòa nhập xã hội. Chúng phụ thuộc vào hoàn cảnh và có thể thay đổi. Trong những bối cảnh cụ thể, giới xác định điều gì nữ hoặc nam cần phải làm, được phép làm và được đánh giá cao. Vai trò của giới cũng khác với vai trò của giới tính (mang đặc điểm sinh học). Sự khác nhau này chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố lịch sử, tôn giáo, kinh tế, văn hóa và chủng tộc. Vai trò giới không phải có từ khi chúng ta được sinh ra, mà là những điều chúng ta đang được dạy dỗ và thu nhận từ khi còn nhỏ và trong suốt quá trình trưởng thành. Vai trò giới là sự hội tụ những hành vi ứng xử được dạy dỗ về mặt xã hội, mong muốn về những đặc điểm và năng lực mà xã hội coi là thuộc về đàn ông hoặc thuộc về đàn bà (bé trai hay bé gái) trong một xã hội hay một nền văn hóa cụ thể nào đó. Đó cũng là các mối quan hệ giữa nữ và nam: ai nên làm gì; ai là người ra quyết định, tiếp cận nguồn lực và các lợi ích. Thông thường, mọi người phải chịu rất nhiều áp lực buộc mỗi người phải tuân thủ các quan niệm xã hội này.Đặc điểm giới và các mối quan hệ giới là các khía cạnh quan trọng của một nền văn hóa, bởi chúng quyết định lối sống trong gia đình, ngoài cộng đồng và ở nơi làm việc.
Ngoài ra "giới" cũng được hiểu là:
chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội.
(Theo Khoản 1, Điều 5, Luật Bình đẳng giới 2006)