Hệ thống pháp luật

giết con mới đẻ

"giết con mới đẻ" được hiểu như sau:

Hành vi của người mẹ vứt bỏ dẫn đến chết hoặc giết con đẻ của mình khi đứa trẻ còn trong vòng bảy ngày tuổi.Đây là trường hợp giết người có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt. Trong Luật hình sự Việt Nam, trường hợp phạm tội này đã được thực tiễn xét xử thừa nhận trước khi được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985. Theo đó, giết con mới đẻ mới chỉ được quy định là trường hợp phạm tội có dấu hiệu định khung hình phạt giảm nhẹ của tội giết người. Thể hiện sự phân hóa trách nhiệm hình sự ở mức cao hơn. Bộ luật hình sự năm 1999 đã tách trường hợp phạm tội này khởi tội giết người và quy định thành tội danh riêng - tội giết con mới đẻ. Theo đó, giết con mới để đòi hỏi các dấu hiệu sau: Chủ thể của tội phạm là mẹ đẻ của đứa trẻ bị giết; Chủ thể của tội phạm là người mẹ còn đang trong tình trạng không bình thường về tâm sinh lý sau khi sinh con (trong phạm vi 7 ngày sau khi sinh con); Hành vi phạm tội được thực hiện trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt hoặc do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu. Hành vi biểu hiện bằng việc giết chết hoặc vứt bỏ dẫn đến đứa trẻ phải chết.Các dấu hiệu trên - dấu hiệu về động cơ và dấu hiệu về chủ thể phản ánh rõ trường hợp giết con mới đẻ là trường hợp phạm tội được giảm nhẹ đặc biệt so với trường hợp phạm tội giết người thông thưởng.Trường hợp vứt bỏ con mới đẻ là trường hợp đặc biệt gây ra hậu quả đứa trẻ chết và lỗi của chủ thể chỉ có thể là lỗi cố ý gián tiếp.Hình phạt được quy định cho tội giết con mới đẻ có mức cao nhất là 2 năm tù.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ được quy định tại Điều 124 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành vào ngày 27 tháng 11 năm 2015.