giao kết hợp đồng
"giao kết hợp đồng" được hiểu như sau:
Các bên bày tỏ với nhau ý chí về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng trên cơ sở tuân theo các nguyên tắc do pháp luật quy định.1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.Nội dung của nguyên tắc thể hiện hai vế có tầm quan trọng hàng đầu trong giao kết hợp đồng: tự do nhưng không được trái với các đòi hỏi mà pháp luật quy định: không được trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Quan hệ hợp đồng thuộc lĩnh vực tự định đoạt của các bên, các bên tự do giao kết, không ai có quyền cản trở hoặc cưỡng ép, không bên nào được cưỡng ép bên nào giao kết hợp đồng. Nhưng tự do phải trong khuôn khổ pháp luật, không được trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Trong quan hệ hợp đồng điều chủ yếu là cốt ở đôi bên nhưng không phải là một quan hệ khép kín, biệt lập, chỉ các bên biết với nhau mà luôn đụng chạm, có liên quan đến các lợi ích của xã hội, của người khác. Việc giao kết hợp đồng, từ đó, phải phù hợp với các quy định của pháp luật về các điều kiện giao kết và thực hiện hợp đồng, từ hình thức đến nội dung hợp đồng, như không được trái đạo đức xã hội. Điều 4 Bộ luật dân sự năm 1995 chứa đựng nguyên tắc: “việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy tập quán, truyền thống tốt đẹp, tính đoàn kết tương thân, tương ái..., các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam...”. Nguyên tắc này tiếp tục được khẳng định tại Điều 8 Bộ luật dân sự năm 2005. Pháp luật dân sự của các nước, trong đó có Bộ luật dân sự nước Cộng hòa liên bang Nga năm 1995 có quy định về giá trị pháp lý của các tập quán giao lưu dân sự và giao cho các phòng thương mại và công nghiệp nghiên cứu, công bố rộng rãi cho những ai quan tâm.2. Nguyên tắc các bên “tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng trong giao kết hợp đồng” thể hiện được những điều kiện bảo đảm độ tin cậy, lành mạnh nói chung của quan hệ hợp đồng của một xã hội lành mạnh, tin cậy, thông suốt, trong đó, tự nguyện và bình đẳng luôn luôn phải đi liền với nhau và trước hết các bên phải ở tư thế bình đẳng để có thể nói đến sự tự nguyện, theo đúng nghĩa của từ đó, vì bình đẳng là điều kiện đi trước để có tự nguyên một cách thực sự. Còn thiện chí, hợp tác, trung thực, ngay thẳng lại là những đòi hỏi không thể thiếu trong giao kết, thực hiện hợp đồng vì khi thiếu đi một dấu hiệu, một yếu tố nào đó, thì quan hệ hợp đồng sẽ bị đặt vào một tình trạng khập khiễng và xét một cách khách quan, đây chính là những đòi hỏi được đặt ra không thiên lệch bên nào, vì lợi ích chính đáng, lâu dài của các bên trong quá trình hoạt động vì lợi ích chính đáng, chân chính của mỗi bên và vì vậy, khi một hợp đồng được giao kết do bị đe dọa, cưỡng bức, thiếu trung thực, thiếu hợp tác... thì quan hệ hợp đồng không còn là quan hệ hợp đồng theo đúng nghĩa của nó và trong những trường hợp đó quan hệ hợp đồng phải được tuyên bố là vô hiệu.Giao kết hợp đồng được bắt đầu bằng việc một bên đề nghị với bên kia giao kết hợp đồng và đồng thời, thường kèm theo ngay nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời hạn trả lời. Trong trường hợp đó, bên để nghị không được thay đổi, mời người thứ ba trong thời hạn chờ trả lời và phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình. Việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện dưới những hình thức khác nhau, bằng văn bản viết, bằng lời nói hoặc bằng các phương tiện khác và việc trả lời do hai bên thỏa thuận, trả lời ngay hoặc một thời hạn do hai bên ấn định.Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu sau thời hạn đó thì sự chấp nhận của bên được đề nghị được xem là để nghị mới của bên trả lời. Khi việc trả lời được chuyển qua bưu điện thì thời điểm trả lời là ngày gửi đi theo dấu của bưu điện.Bên đề nghị có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong trường hợp: khi bên được đề nghị chưa nhận được đề nghị; bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, giao kết hợp đồng được quy định tại Tiểu mục 1 Mục 7 Chương XV Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015.