Hệ thống pháp luật

gián điệp

"gián điệp" được hiểu như sau:

(Hành vi) thu thập, cung cấp cũng như hành vi khác liên quan đến việc thu thập, cung cấp các bí mật nhà nước cũng như các thông tin khác giúp cho nước ngoài chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Gián điệp là hành vi đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia. Trong Luật hình sự Việt Nam, gián điệp được quy định là tội danh độc lập kể từ khi Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng năm 1967 có hiệu lực. Trước đó, gián điệp được quy định chung cùng với các hành vi khác “có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” (Sắc lệnh số 13 ngày 13.9.1945). Cùng với Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng năm 1967, Sắc luật số 03 năm 1976 cũng quy định tội gián điệp nhưng không mô tả cụ thể như Pháp lệnh năm 1967. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999, tội gián điệp cùng được quy định là tội phạm thuộc chương "Các tội xâm phạm an ninh quốc gia”. Theo Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành, hành vi gián điệp có thể là những hành vi sau: 1) Hoạt động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 2) Gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài; 3) Giúp sức cho việc hoạt động tình báo; 4) Cung cấp bí mật nhà nước cho nước ngoài; 5) Thu thập bí mật nhà nước để cung cấp cho nước ngoài; 6) Thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu khác để nước ngoài sử dụng chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Hình phạt cho tội này có thể tới tử hình. Kẻ phạm tội cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp đã nhận làm gián điệp nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và đã tự thú, thành thật khai báo.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, tội gián điệp được quy định tại Điều 110 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.