Hệ thống pháp luật

giám hộ

"giám hộ" được hiểu như sau:

Người giám hộ thực hiện việc chăm sóc, giúp đỡ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người bị tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của người được giám hộ.Giám hộ được thực hiện bởi cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan nhà nước được pháp luật quy định hoặc được cử.Người được giám hộ có thể là: 1) Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc ở vào tình trạng không xác định được cha, mẹ hoặc cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc cha, mẹ bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc cha, mẹ là người bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc còn cha, mẹ nhưng cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và khi cha, mẹ có yêu cầu; 2) Người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.Người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, thì bắt buộc phải có người giám hộ. Một người có thể giám hộ cho nhiều người, nhưng một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp người giám hộ là cha, mẹ hoặc ông, bà thì cha mẹ hoặc ông bà đều là người giám hộ. Trường hợp cá nhân làm người giám hộ thì phải có đủ các điều kiện sau; 1) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; 2) Có điều kiện cần thiết bảo đảm thực hiện việc giám hộ.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, giám hộ được quy định tại Mục 4 Chương III Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015.