Hệ thống pháp luật

giảm án

"giảm án" được hiểu như sau:

Giảm thời hạn chấp hành hoặc hình thức chấp hành hình phạt.Giảm án được thực hiện bởi Tòa án, trên cơ sở quyết định cho đối tượng là người đang chấp hành hình phạt. Như vậy, người được giảm án là người đang chấp hành hình phạt tù, cải tạo không giam giữ, cải tạo ở các đơn vị kỷ luật của quân đội, cấm cư trú hoặc quản chế, phạt tiền. Điều 268 và Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định điều kiện để được giảm thời hạn và thủ tục giảm thời hạn chấp hành hình phạt, trong đó quy định: người đang chấp hành hình phạt tù, cải tạo không giam giữ, cấm cư trú hoặc quản chế có thể được giảm thời hạn chấp hành hình phạt theo quy định tại các điều 57, 58, 59 và 76 Bộ luật hình sự năm 1999; nếu họ chưa chấp hành hình phạt tù thì có thể được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 57 Bộ luật hình sự; Tòa án có thẩm quyền quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù là Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án chấp hành hình phạt.Việc giảm thời hạn các hình phạt khác hoặc thời gian thử thách thuộc thẩm quyền quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực, nơi người bị kết án chấp hành hình phạt hoặc thử thách. Theo Điều 58 Bộ luật hình sự năm 1999, người bị kết án cải tạo không giam giữ, nếu đã chấphành hình phạt được một thời gian nhất định có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.Người bị kết án phạt tù, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định và đã có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 1/3 thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù từ 30 năm trở xuống, 12 năm đối với tù chung thân. Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn việc chấp hành hình phạt còn lại. Một người có thể được giảm án nhiều lần, nhưng phải đảm bảo chấp hành được một nửa mức hình phạt đã tuyên.Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù và dù được giảm nhiều lần phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm. Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được 2/3 mức hình phạt chung hoặc 20 năm nếu là tù chung thân.Bộ luật hình sự năm 1999 quy định giảm án không áp dụng đối với hình phạt tử hình, riêng đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, phụ nữ có thai hình phạt tử hình được chuyển thành chung thân. Trong một số trường hợp có tình tiết đặc biệt (như Xiêng Phênh trong vụ án Vũ Xuân Trường) thì cũng được các cơ quan có thẩm quyền xem xét để giảm án tử hình.Theo Điều 59 Bộ luật hình sự, việc giảm án cũng được xem xét trong trường hợp đặc biệt như người bị kết án mà có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công, mắc bệnh hiểm nghèo thì Tòa án có thể xét giảm án sớm hơn hoặc ít hơn so với thời gian mà hình phạt đã tuyên.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, các hình thức giảm án được quy định từ Điều 62 đến Điều 66 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.