Hệ thống pháp luật

giá trị bảo hiểm

"giá trị bảo hiểm" được hiểu như sau:

Giá trị của đối tượng được bảo hiểm do thỏa thuận mà người chủ sở hữu đối tượng bảo hiểm và công ty bảo hiểm ghi trong hợp đồng bảo hiểm để xác định phí bảo hiểm và giới hạn trách nhiệm trả tiền bảo hiểm.Thông thường, giá trị tài sản cũng là giá trị bảo hiểm của tài sản được bảo hiểm. Tuy vậy, các bên ký kết hợp đồng có thể thỏa thuận giá trị bảo hiểm gồm giá trị tài sản bảo hiểm và một số chi phí khác có liên quan.Trong quan hệ bảo hiểm tài sản có thể xảy ra trường hợp bảo hiểm trên giá trị, bảo hiểm dưới giá trị, bảo hiểm trùng.Pháp luật về bảo hiểm của các nước đều thực hiện nguyên tắc chung là chống trục lợi bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm nên nếu bảo hiểm trên giá trị thực của tài sản do người được bảo hiểm lừa dối hoặc cố ý khai sai khi ký kết hợp đồng bảo hiểm thì bên bảo hiểm có quyền hủy bỏ hợp đồng và đòi bồi thường. Trường hợp bảo hiểm trên giá trị của tài sản không có sự gian lận thì giới hạn trách nhiệm bảo hiểm là giá trị thực tế của đối tượng bảo hiểm và người được bảo hiểm không có quyền đòi phí bảo hiểm đã nộp của phần vượt giá trị. Đối với trường hợp bảo hiểm dưới giá trị, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với các tổn thất theo tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm.Theo quy định của pháp luật Việt Nam, giá trị thực của tài sản bảo hiểm là giá trị thị trường tại thời điểm giao kết hợp đồng. Trong trường hợp một tài sản được bảo hiểm bởi nhiều hợp đồng bảo hiểm với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm thì về nguyên tắc, tổng số tiền bảo hiểm được chi trả từ các hợp đồng chỉ trong phạm vi giá trị thực tế của đối tượng bảo hiểm.