Hệ thống pháp luật

đường cơ sở

"đường cơ sở" được hiểu như sau:

Ranh giới phía ngoài của nội thủy và là ranh giới phía trong của lãnh hải.Đường cơ sở do quốc gia ven biển tự xác định phù hợp với quy định của Công ước luật biển năm 1982. Đường cơ sở có vai trò rất quan trọng vì nếu không xác định được đường cơ sở thì cũng không thể xác định được chiều rộng của vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việc xác định vị trí của đường cơ sở cũng có thể làm cho các vùng biển khác của quốc gia được mở rộng hoặc thu hẹp.Công ước luật biển năm 1982 cũng như thực tiễn xác định đường cơ sở của các quốc gia trên thế giới cho thấy có hai phương pháp xác định đường cơ sở chủ yếu: phương pháp đường cơ sở thông thường và phương pháp đường cơ sở thẳng. Căn cứ vào địa hình bờ biển của mình, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã áp dụng phương pháp đường cơ sở thẳng để xác định đường cơ sở của mình.Do địa hình bờ biển của các quốc gia rất phức tạp và khác nhau, mặt khác, việc xác định đường cơ sở lại do chính quốc gia ven biển tự tiến hành nên để tránh tình trạng việc xác định đường cơ sở có thể làm cho một khu vực lãnh hải trở thành nội thủy hay một vùng biển trở thành lãnh hải, Công ước Luật biển năm 1982 đã có những điều khoản quy định tương đối chi tiết về các phương pháp xác định đường cơ sở cho các quốc gia có biển.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, đường cơ sở được quy định tại Điều 8 Luật biển Việt Nam năm 2012 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 21 tháng 06 năm 2012.

Ngoài ra "đường cơ sở" cũng được hiểu là:

Là đường gẫy khúc nối liền các điểm được lựa chọn tại ngấn nước thuỷ triều thấp nhất dọc theo bờ biển và các đảo gần bờ do Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định và công bố.

(Theo Khoản 1, Điều 4, Luật Biên giới Quốc gia 2003)